Trang 5
tượng mất ổn định tiền tệ có thể dẫn đến lạm phát, song việc đảm bảo an toàn tài
chính rất khó khăn vì có thể xảy ra mất cắp…
Để khắc phục được những mặt tồn tại trên, phương thức thanh toán không
dùng tiền mặt ra đời. Nó không những giúp giải quyết các khoản nợ trong nền kinh
tế quốc dân một cách dễ dàng mà còn đem lại hiệu quả to lớn cho nền kinh tế - xã
hội.
2.2. Ý nghĩa của thanh toán không dùng tiền mặt
Trong thực tế, nền sản xuất xã hội ngày càng phát triển thì việc thanh toán,
chi trả bằng tiền mặt ngày càng ít đi và thay thế là quá trình thanh toán không dùng
tiền mặt, ở các nước có nền kinh tế phát triển thì tỷ lệ thanh toán không dùng tiền
mặt là rất lớn, hầu hết mọi giao dịch đều được tập trung thông qua ngân hàng để
thanh toán, chính vì vậy thanh toán không dùng tiền mặt có ý nghĩa rất lớn.
Thanh toán không dùng tiền mặt giúp ngân hàng và các tổ chức tài chính có
thể phát huy được khả năng huy động vốn tạm thời nhàn rỗi trong nền kinh tế để
cho vay phục vụ nhu cầu phát triển kinh tế, tăng cường nguồn vốn cho ngân hàng.
Việc mở rộng thanh toán không dùng tiền mặt góp phần thực hiện tốt chính
sách tiền tệ của nhà nước.
Tạo điều kiện giảm chi phí lưu thông tiền mặt, tiết kiệm lao động xã hội, tăng
cường độ an toàn và phòng ngừa rủi ro.
II. VAI TRÒ, Ý NGHĨA, NGUYÊN TẮC THANH TOÁN VÀ CÁC
PHƯƠNG THỨC THANH TOÁN GIỮA CÁC NGÂN HÀNG
1. Vai trò
Thanh toán qua lại giữa ngân hàng thể hiện chức năng tập trung thanh toán
của ngân hàng đối với nền kinh tế và điều hoà vốn trong nội bộ ngân hàng.
Thực hiện tốt nghiệp vụ thanh toán giữa các ngân hàng chính là thực hiện
được yêu cầu của công tác thanh toán không dùng tiền mặt đó là: nhanh chóng, kịp
thời, chính xác, an toàn tài sản, tăng nhanh vòng quay vốn góp phần tiết giảm chi
phí lưu thông do không phải in ấn vận chuyển tiền mặt từ nơi này sang nơi khác.
Để thực hiện tốt nghiệp vụ thanh toán qua lại giữa các ngân hàng thì đòi hỏi
ngân hàng phải cải tiến thể lệ, chế độ thanh toán không dùng tiền mặt cho phù hợp
với yêu cầu của việc trao đổi thanh toán tiền hàng hoá dịch vụ của toàn xã hội, tăng
Trang 6
cường trang thiết bị kỹ thuật phục vụ thanh toán nhanh chóng chính xác, cải tiến
việc điều hành và quản lý vốn trong ngân hàng.
2. Ý nghĩa
Thanh toán vốn giữa các ngân hàng là hoạt động nghiệp vụ nhằm thực hiện
đầy đủ chức năng trung gian thanh toán của ngân hàng và góp phần thực hiện các
chức năng cơ bản khác nhau của ngân hàng.
Là nghiệp vụ tạo nên mối liên hệ nối liền các cơ sở Ngân hàng thành một hệ
thống chặt chẽ, tạo điều kiện thu hút vốn nhàn rỗi vào Ngân hàng.
Có tác động qua lại và ảnh hưởng đến bản chất của các công cụ hiện có trên
thị trường tiền tệ, tác động đến mức dự trữ của các ngân hàng, từ đó có tác động đến
cơ chế truyền động của chính sách tiền tệ.
3. Các nguyên tắc
Tổ chức tốt công tác thanh toán giữa các ngân hàng trong nền kinh tế được
nhanh chóng, chính xác từ đó góp phần tăng nhanh tốc độ luân chuyển vốn.
Tăng cường quá trình kiểm soát các nghiệp vụ thanh toán, hạn chế di chuyển
tiền mặt giữa các địa phương từ đó hạ chế các hiện tượng tham ô, lợi dụng và tiết
kiệm đáng kể chi phí lưu thông.
Phát huy vai trò của ngân hàng trong việc tập trung công tác thanh toán của
nền kinh tế, tăng cường nguồn vốn cho hoạt động ngân hàng.
Coi quá trình thanh toán giữa các ngân hàng là một khâu của quá trình thanh
toán không dùng tiền mặt.
Để đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế thị trường, đất nước càng phát triển, đời
sống của người dân không ngừng tăng lên, sản xuất lưu thông hàng hoá ngày càng
phát triển, việc thanh toán giữa các tổ chức, đơn vị kinh tế được thực hiện dưới hình
thức không dùng tiền mặt, còn với hình thức đa dạng không chỉ ở cùng một ngân
hàng mà họ còn mở tài khoản ở các ngân hàng khác nhau, chính vì vậy việc tổ chức
thanh toán qua lại giữa các ngân hàng là một yêu cầu cần thiết và khách quan.
Trong thanh toán không dùng tiền mặt: Người trả tiền và người thụ hưởng
đều có tài khoản ở một ngân hàng thì thanh toán chỉ đơn giản là trích chuyển tiền
trên các tài khoản ở cùng một ngân hàng. Nhưng nếu người trả tiền và người thụ
hưởng ở các ngân hàng khác nhau thì đòi hỏi phải có ít nhất 2 ngân hàng tham gia
Trang 7
thực hiện thanh toán, thông qua nghiệp vụ thanh toán qua lại giữa các ngân hàng.
Thanh toán giữa các ngân hàng còn do nhu cầu của việc tập trung và điều hoà vốn
thuộc ngân sách nhà nước, của các ngành, các tổ chức kinh tế.
Ngoài ra, xuất phát từ các nghiệp vụ ngân hàng từ yêu cầu của công cuộc
điều hoà vốn trong từng hệ thống ngân hàng cũng đòi hỏi phải tổ chức nghiệp vụ
thanh toán giữa các ngân hàng.
4. Các phương thức thanh toán giữa các ngân hàng
Do cơ cấu tổ chức của hệ thông ngân hàng Việt Nam hiện nay, mỗi hệ thống
độc lập về vốn, mỗi NHTM được tổ chức thành lập từ trung ương đến cơ sở. Vì vậy
thanh toán giữa các đơn vị ngân hàng được thực hiện theo các phương thức sau:
- Phương thức thanh toán liên hàng
- Phương thức thanh toán bù trừ
- Phương thức thanh toán qua tài khoản tiền gửi tại NHNN hoặc qua tài
khoản tiền gửi tại tổ chức tín dụng khác.
- Phương thức thanh toán uỷ nhiệm thu hộ, chi hộ.
III. PHƯƠNG THỨC THANH TOÁN ĐIỆN TỬ (TTĐT) Ở NGÂN HÀNG CÔNG
THƯƠNG
1. Các quy định chung
Quy trình thanh toán điện tử thay thế quy trình thanh toán liên hàng qua máy
vi tính hiện hành là quy trình hạch toán quản lý điều hành vốn tập trung trong hệ
thống Ngân hàng Công thương Việt Nam.
- Mọi khách hàng giao dịch với Ngân hàng Công thương Việt Nam đều được
tham gia hệ thống thanh toán điện tử theo cơ chế thanh toán qua ngân hàng ban hành
theo quyết định số 22/QĐ-NH1 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước và các văn bản
hướng dẫn của Tổng giám đốc Ngân hàng Công thương Việt Nam.
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Trang 11
Trang 12
Trang 13
Trang 14
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét