Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Còn theo pháp lênh ngân hàng ngày 23/5/1990 của Hội đồng Nhà nước
xác định: NHTM là tổ chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt dộng chủ yếu và thường
xuyên là nhận tiền gửi từ khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền
đó để cho vay, thực hiện nghiệp vụ chiết khấu và làm phương tiện thanh toán.
Qua những khái niệm nêu trên, có thể rút ra một số điểm đặc trưng của
NHTM như sau:
- Thứ nhất, NHTM là một tổ chức được phép nhận ký thác của công chúng
với trách nhiệm hoàn trả.
-Thứ hai, NHTM là một tổ chức được phếp sử dụng ký thác của công
chúng để cho vay, chiết khấu và thực hiện các dịch vụ tài chính khác.
Ở đây chúng tín dụng cũng ohân biệt NHTM với các tổ chức tín dụng
khác.
Vào cuối thập niên 60, điểm đặc thù để phân biệt NHTM với các ngân
hàng trung gian khác là: NHTM là đơn vị duy nhất mở tài khoản, tiền gửi không
kỳ hạn cho công chúng. Điều này có nghĩa là, người tín dụng phân biệ nó dựa
vào các thành phần của tài sản nợ( liabilities). Vào lúc này, tiền gửi không kỳ
hạn bị cấm trả lãi, tuy nhiên vì nhu cầu giao dịch thông qua séc vẫn tăng gấp đôi
hàng năm, do đó khối lượng Séc phát hành từ các khoản tiền gửi không kỳ hạn
tiếp tục là bộ phận mạnh nhất sau tiền mặt pháp định.
Từ những năm 80 sau, sau sau khi tiền gửi không kỳ hạn đã được phép
trả lãi, các ngân hàng tiết kiệm và các tổ chức tín dụng khác NHTM cũng được
quyền và bắt đầu mở tài khoản gửi không kỳ hạn, cho phép công chúng sử dụng
séc một cách linh hoạt, đa dạng dưới nhiều hình thức. Lúc này việc phân biệt
NHTM với các ngân hàng khác và các tổ chức tín dụng khác dựa trên tài sản
nợ(labilities) không còn phù hợp nữa. Do vậy, các chuyên gia ngân hàng phương
tây bắt đầu phân biệt NHTM với các Ngân hàng khác và các tổ chức tín dụng
khác dựa trên tài sản có( Assets). Theo tiêu thức này, một NHTM là một trung
Sinh viên thực hiện: Phan Xuân Vũ – NH44C5
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
gian mà tỷ lệ vốn cho vay vào mục đích thương mại và công nghiệp là chiếm đa
số.
1.2. Chức năng của NHTM.
1.2.1.Trung gian thanh toán.
Thực hiện chức năng trung gian thanh toán NHTM cung cấp các phương
tiện thanh toán cho nèn kinh tế, tiết kiệm chi phí lưu thông và nâng cao khả năng
tín dụng.
Việc mở tài khoản, cung cấp và quản lý các phương tiện thanh toán cho
NHTM trở thành một trung tâm thanh toán cho nền kinh tế. NHTM sẽ thừa lệnh
khách hàng để thực hiện toàn bộ các nghiệp vụ ngân quỹ của khách hàng. Việc
làm này giúp cho khách hàng cũng như nền kinh tế chu chuyển vốn nhanh, an
toà và tiết kiệm. Do đó, tiết kiệm được chi phí lưu thông, nâng cao hiệu quả sử
dụng vốn của nền kinh tế.
Với chức năng trung gian thanh toán cũng cho phép NHTM tạo ra bút tệ
để mở rộng quy mô tín dụng đối với nền kinh tế, vừa tiết kiệm được lượng tiền
mặt, vừa đáp ứng được những hoạt động thường xuyên của nền kinh tế.
Trong một nền kinh tế phát triển, quy mô thanh toán và khoảng cách giữa
khách hàng với nhau ngày càng tăng nhanh chóng. Việc thanh toán trực tiếp giữa
các khách hàng với nhau ngày với nhau sẽ không thoả mãn được nhu cầu của
nền kinh tế nếu không có NHTM làm chức năng trung gian thanh toán cho chủ
thể của nền kinh tế.
Việc hệ thống NHTM thực hiện chức năng trung gian thanh toán mang
một ý nghĩa rất to lớn đối với toàn bộ nền kinh tế nói chung.
Trước hết, hệ thống NHTM sẽ cung cấp cho chủ thể của nền
kinh tế nhiều công cụ thanh toán mang tiện ích cao như: thẻ thanh toán, thẻ tín
dụng, thẻ rút tiên, ngân phiếu, uỷ nhiệm chi, uỷ nhiệm thu…
Sinh viên thực hiện: Phan Xuân Vũ – NH44C6
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Tuỳ theo yêu cầu khách hàng có thể lựa chọn một trong những công
cụ thanh toán thích hợp. Nhờ có các phương thức thanh toán được thực hiện bởi
các NHTM , các chủ thể kinh tế không phải giữ tiền trong túi, mang theo tiền
đến gặp chủ nợ, gặp người thụ hưởng dù gần hay xa mà họ có thể sử dụng một
phương thức thanh toán nào đó đơn giản, chẳng hạn như một tờ séc, một uỷ
nhiệm chi …để giao cho khách hàng hoặc yêu cầu ngân hàng chi trả hộ, thu hộ
các khoản tiền theo ý muốn của mình.
- Thứ hai, là khi sử dụng các phương tiện thanh toán, bản thân chủ
thể kinh tế sẽ tiết kiệm được rất nhiều chi phí lao động, thời gian, lại an toàn. Hệ
thông NHTM lại tích tụ được một nguồn vốn khổng lồ để có thể mở rộng khả
năng tín dụng của mình.
Ngày nay, có thể nói rằng hoạt động thanh toán của hệ thống NHTM
chiếm một vị trí quan trọng trong hoạt động của NHTM nó tạo đều kiện cho
nhiều dịch vụ Ngân hàng khácphát triển dễ dàng hơn, đồng thời nó tiết kiệm một
khối kượng rất lớn tiền mặt trong lưu thông.
Nhìn vào hệ thống thanh toán của NHTM, người ta có thể đánh giá được
ngay hoạt động của hệ thống NHTM có hiệu quả hay không.
Chu chuyển tiền tệ ngày nay chủ yếu thông qua hệ thống NHTM và do
vậy chỉ khi chức năng trung gian thanh toán được hoàn thiện và vai trò của
NHTM sẽ được nâng cao hơn với tư cách là người thủ quỹ của xã hội
1.2.2. Chức năng tạo tiền.
NHTM là một tong những tổ chức trung gian tài chính, làm trung gian
cung và cầu vốn tiền tệ, nó huy động tập trung giữa các nơi có nguồn tiền tạm
thời thừa, hay tiết kiệm để điều hoà nhu cầu về vốn, với mục đích đem lại lợi ích
cho các bên: người gửi tiền, ngân hàng và người vay. Nhưng ngoài việc thu hút
tiền gửi và cho vay số tiền gửi đó, NHTM còn tạo tiền khi phát tín dụng.Nghĩa là
vốn phát qua tín dụng không nhất thiết dựa trên vàng hay tiền giấy đã gửi vào
Sinh viên thực hiện: Phan Xuân Vũ – NH44C7
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
ngân hàng, tiền vay không trên cơ sở số tiền gửi, mà khoản tín dụng đó do ngân
hàng tạo ra tiền để cho vay, gọi là bút tệ , hay bút toán, hay tiền ghi sổ. Khi hết
hạn vay người vay trả nợ ngân hàng, tiền vay rút khỏi lưu thông, quay trở lại
ngân hàng tiền bị huỷ bỏ. Trong phạm vi một nền kinh tế , hoạt động cho vay và
trả nợ diễn ra thường xuyên. hàng ngày có tiền tạo ra và tiền bị huỷ đi. Khối
lượng tiền tệ trong lưu thông tăng lên khi luồng tiền tạo ra( phát tín dụng) lớn
hơn luồng tiền huỷ đi ( trả nợ ngân hàng).
1.2.3.Chức năng trung gian tài chính.
Ngân hàng thương mại thực hiện chức năng trung gian tài chính phi ngân
hàng đứng giữa thu nhận tiền gửi của người gửi tiền để cho vay ngươi cần vay
tiền hoặc làm môi giớ cho ngưòi đầu tư. Điều này có thể được khái quát hoá qua
sơ đồ sau:
Thực hiện chức năng này, NHTM thực sự là “ cầu nối”
giữa những người có tiền muốn cho vay hoặc muốn gửi ở ngân hàng với
những người thiếu vốn cần vay. NHTM góp phần tạo lợi ích công bằng cho cả 3
bên trong mối quan hệ: ngưòi gửi tiền, ngân hàng, và người vay.
- Đối với những người gửi tiền: họ sinh lợi được vốn tạm thời nhàn
rỗi của mình bởi lãi suất tiền gửi mà ngân hàng trả cho họ hoặc họ dược ngân
hàng tạo ra cho họ cái tiện ích như sự an toàn hoặc cung cấp cho họ các phương
tiện thanh toán .
- Đối với người vay: sự thoả mãn được nhu cầu kinh doanh hoặc chi
tiêu, thanh toán mà khỏi tốn nhiều công sức, thời gian cho việc tìm kiếm nơi vay
tiền tiện lợi, chắc chắn và hợp pháp.
Sinh viên thực hiện: Phan Xuân Vũ – NH44C8
Cá nhân, doanh
nghiệp
Ngân
hàng
thương
mại
Cá nhân, doanh
nghiệp
Cho vay
đầu tư
Nhận tiền gửi
uỷ thác đầu tư
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
- Đối với NHTM : sẽ tìm kiếm được lợi nhuận cho bản thân mình dựa
vào chênh lệch giữa lãi suát cho vay, lãi suất tiền hoặc hoa hồng môi giớ. Lợi
nhuận này chính là cơ sở tồn tại và phát triển của cácNHTM.
Thông qua chức năng trung gian tài chính, các NHTM thực sự huy động
được sức mạnh tổng hợp của nền kinh tế vào quá trình sản xuất và lưu thông
hàng hoá, thực hiện các dịch vụ tiện ích cho xã hội. Nếu như không có NHTM
việc huy động của cải xã hội vào quá trình sản xuất kinh doanh, tiêu dùng sẽ
chậm đi rất nhiều. Và vì vậy mà người tín dụng cho rằng ngân hàng là một trong
3 phát minh quan trọng của nhân loại lửa và bánh xe.
Nhờ có NHTM mà tiền tiết kiệm của các cá nhân, đoàn thể, các tổ chức
được huy động vào quá trình vận động của nền kinh tế. Tiền huy động được này
thông qua các hoạt động của hệ thống NHTM nó trở thành “ chất bôi trơn” cho
bộ máy kinh tế hoạt động. Nó chuyển của cải của xã hội, tài nguyên xã hộivề nơi
chưa sử dụng, còn tiềm tàng vào quá trình sử dụng nóphục vụ cho phát triển sản
xuất kinh doanh, đời sống ngày càng cao của xã hội.
Ngày nay, có thể nói mọi quan hệ kinh tế xã hội của loài người đều thông
qua quan hệ tiền tệ và chủ yếu là thông qua hoạt động của hệ thống ngân hàng
bên cạnh hoạt động của các tổ chức phi ngân hàng.
1.3. Các nghiệp vụ của NHTM.
1.3.1. Nghiệp vụ nợ.( Nghiệp vụ tạo lập vốn).
Nghiệp vụ tạo nên nguồn vố hoạt động của ngân hàng gọi là nghiệp vụ
nợ, vì những khoản mục nguồn vố do nghiệp vụ này tạo nên khi thể hiện trên
bảng tổng kết tài sản của NHTM sẽ nằm bên tài sản nợ.
Đây là nghiệp vụ khởi đầu tạo điều kiện cho sự phát triển của ngân hàng.
Về sau,khi NHTM đã hình thành ổn định, các nghiệp vụ của nó được xen kẽ lẫn
nhau trong suốt quá trình hoạt động.
Sinh viên thực hiện: Phan Xuân Vũ – NH44C9
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Huy động của các nguồn vốn khác nhau(tài sản nợ) trong xã hội để hoạt
động là lẽ sống quan trọng nhất của các NHTM. ở các nước công nghiệp, với sự
phát triển nhanh chóng của thi trường tài chính, đã có rất nhiều loại tài sản có lợi
tức ổn định và thanh khoản cao, tài sản nợ rất đa dạng làm cho việc tìm kiếm vốn
hoạt động của NHTM trở thành sự cạnh tranh khốc liệt, trước mắt các ngân hàng
ở các nước phát triển luôn luôn xuất hiện vấn đề làm thế nào để có đủ vốn đàu tư
cho môi trường kinh doanh đầy kịch tính> NHTM phải cạnh tranh với những
ngân hàng khác, các tổ chức tài chính khác, với nghiệp vụ thị trường trực tiếp và
với bất cứ các tổ chức nào khác muốn thu hút một khối lượng vốn nào đó.
Cho đến thời gian gần đây, tài sản nợ của các NHTM trên khắp thế giới
vẫn còn tập trung vào năm nhóm phổ biến: 1)vốn pháp định hay vố điều lệ,2)
tiền gửi không kỳ hạn, 3) tiền gửi có kỳ hạn và tiết kiệm, 4) các khoản vay trên
thị trường tiền tệ, 5)các khoản vay các ngân hàng khác hay ngân hàng trung
ương. Tài sản nợ của NHTM là nguồn vốn chủ yếu trong hoạt động kinh doanh
của ngân hàng. Nói theo ngôn ngữ thi trường thì tài sản nợ diễn tả những khoản
nợ mà ngân hàng mắc nợ thị trường, bao gồm những khoản mà nhân dân gửi
vào( ký thác) cho nó, hay nó đi vay các đối tượng trong nền kinh tế như ngân
hàng trung ương, các ngân hàng hay tổ chức tài chínhkhác, chính quyền, nước
ngoài, các doanh nghiệp, nhân dân…Đứng bên tài sản nợ, NHTM là người đi
vay, là con nợ, còn các đối tượng kia là người cho vay, là chủ nợ của NHTM.
Như vậy, thuật ngữ “Tài sản nợ” phản ánh rằng đó là tài sản của người khác mà
ngân hàng vay.
1.3.2. Nghiệp vụ có( sử dụng vốn).
Những nghiệp vụ sử dụng vốn hình thành nên tài sản của ngân hàng mà
khi lên bảng tổng kết tài sản nó nằm bên phía tài sản có. Như vậy, tài sản chủ
yếu của ngân hàng là các tài sản tài chính hay còn gọi là các hình thức trái
Sinh viên thực hiện: Phan Xuân Vũ – NH44C10
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
quyền( như cổ phiếu,trái phiếu và các khoản vay), thay vì tài sản thực như nhà
cửa, công cụ và nguyên vật liệu.
Huy đông được nhàn rỗi, NHTM phải làm thế nào để hiệu quả hoá những
nguồn tài sản này. Hỗu như tất cả các khoản mục bên tài sản nợ của ngân hàng
đeeuf là vốn vay, nghĩa là ngân hàng phải trả lãi suất cho nó đến từng giờ. Do
đó, để khỏi bị thiệt hại, ngân hàng luôn luôn phải cho vay hoặc đầu tư ngay số tài
sản ấy vào những dịch vụ sinh lãi. Từ lãi thu được ngân hàng sẽ dùng nó để trả
lãi suất cho vốn đã vay thanh toán chi phí cho các hoạt động, phần còn lại sẽ là
lợi nhuận của ngân hàng. Nói cách khác, nghiệp vụ của ngân hàng là những
nghiệp vụ sử dụng những khoản vốn đã huy động(tập chung vào nghiệp vụ nợ)
nhằm mục đích sinh lợi.
Cho vay hay đầu tư để sinh lợi từ tiền đã huy đông được sẽ là lẽ sống của
NHTM.Cho vay hay đầu tư vào các loại tài sản nào cũng đều là hoạt động kiếm
lợi nhuận. chỉ có một ít khác biệt giữa hai khái niệm, do đó đôi khi người tín
dụng cũng gọi cả hai hoạt động trênvào một từ là “ đầu tư”. Khi ngân hàng đầu
tư tiền vốn vào một thương vụ hoặc cho sản xuất kinh doanh và tiêu dùng vay,
nó trở thành là chủ nợ, các đối tượng kia là vay nợ. Vì thế các khoản đầu tư trên
biến thành tài sản co( assets) của ngân hàng. Nó càng đầu tư nhiều, càng sinh lãi
nhiều từ vốn đã huy động. Nếu không đầu tư được, nó sẽ bị lỗ vì phải trả lãi cho
tài sản nợ. Là một đơn vị kinh doanh tiền tệ bất cứ thành phần nào vay tiền của
nó đều trở thành con nợ của ngân hàng. do vậy con nợ của ngân hàng có thể là
mọi thành phần nhân dân trong và ngoài nước.
Tài sản có cho biết những khoản nợ mà thi trường nợ ngân hàng hoặc là
những khoả mà ngân hàng cho thị trường vay.Nếu chữ “ Nợ” phản ánh rằng đó
là tài sản của người khác mà ngân hàng mượn, thỉ chữ “ Có” phản ánh những tài
sản của ngân hàng đang được các thành phần khác mượn. Đứng trên góc độ tính
chất ngân hàng là chủ nợvà các đối tượng vay tiền của nó là con nợ. Vì mục tiêu
Sinh viên thực hiện: Phan Xuân Vũ – NH44C11
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
của ngân hàng là cho vay đẻ kiếm lời nên tài sản có hay các khoản mà ngân hàng
cho thi trưòng vay còn được gọi là đầu tư của ngân hàng( banking investment).
Ngân hàng có rất nhiều cách để đầu tư tiền của nó. Sự khác nhau giữa các
loại đầu tư này hình thành nên sự khác nhau trong tài sản có của NHTM hoặc có
thể nói ngược lại, sự đa dạng của tài sản có phản ánh sự đa dạng trong các loại
đầu tư của ngân hàng. ở các nước trên thế giới tài sản có của mỗi NHTM thường
quy về các nhóm sau đây:
1). Dự trữ tiền mặt, bao gồm: tiền mặt tại kho của ngân hàng; tiền
mặt ký gửi tại NHTW.
2). Đầu tư vào chứng khoán ( trái phiếu, cổ phiếu, hối phiếu…)
3). Cho vay
4). Đầu tư vào các loại tài sản ( như bất động sản, cơ sở hạ tầng…)
1.3.3. Nghiệp vụ trung gian.
Có nhiều loại công cụ ngân hàng. ở đây chỉ đề cập một số thông dụng
như tài khoản ngân hàng ngân hàng và các công cụ thanh toán không dùng tiền
mặt.
Nghiệp vụ trung gian gồm rất nhiều loại dịch vụ khác nhau. ở đây chỉ
giới hạn vào các công cụ thanh toán không dùng tiền mặt với một số nội dung
sau:
- Dịch vụ chuyển khoản từ tài khoả này sang tài khoản khác cùng ở
một ngân hàng hay ở hai ngân hàng khác nhau thông qua các công cụ như Séc,
lệnh chi, thẻ chi trả…
- Dịch vụ thu hộ và chi hộ cho khách hàng có tài khoản tiền gửi thanh
toán tại ngân hàng. Việc chi hộ ngân hàng chỉ tiến hành khi có lệnh của chủ tài
khoản.
- Dịch vụ chi lương cho các doanh nghiệp có nhu cầu. Đến tháng
doanh nghiệp chỉ cần gửi bản lương cho các ngân hàng, sau đó ngân hàng sẽ ghi
Sinh viên thực hiện: Phan Xuân Vũ – NH44C12
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
nợ vào tài khoản donh nghiệp đó và chi lương cho những người có tên trong
danh sách tiền lương.
- Dịch vụ chuyển tiền từ địa phương này sang địa phương khác.
- Dịch vụ khấu trừ tự động cũng là dịch vụ với khách hàng là cá
nhân. Theo đó nếu khách hàng cho phép, ngân hàng sẽ tự động ghi nợ tài khoản
của khách hàng để thanh toán cáchoá đơn đòi tiền cho các đơn vị dịch vụ gửi đén
như: trả tiền điện, nước, thuê nhà ,điẹn thoai…đây là những khoản chi thường
xuyên trong tháng nếu không có dịch vụ này khách hàng sẽ tốn nhiều thời gian
và phiền toái.
-
Quy trình thực hiện dịch vụ khấu trừ tự động:
2. LÝ LUẬN CHUNG VỀ TÍN DỤNG NHTM.
2.1. Khái niệm tín dụng.
Hiện nay, xu thế hội nhập và cạnh tranh ngày càng gay gắt đã đặt ra cho
mỗi chủ thể kinh tế những cơ hội và thách thức mới. Đòi hỏi mỗi chủ thể kinh tế
phảI can sự cải tiến về mọi mặt mỗi bản thân nằhm tạo ra sức cạnh tranh để
chiến thắng trong cạnh tranh. Muốn vậy, họ phải có một lượng vố lớn nhiều khi
Sinh viên thực hiện: Phan Xuân Vũ – NH44C13
Ngân hàng Đơn vị dịch vụ
Khách hàng X
Gởi hoá đơn
Thanh toán
Cung
cấp
dịch vụ
Báo nợ
Tài khoản X
XXXX
1
X
2
Chi theo
từng hoá
đơn
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
vượt quá khả năng vố tự có của doanh nghiệp. Để giải quyết những khó khăn
này, họ có thể trực tiếp gặp nhau để thương lượng việc vay vốn hoặc thông qua
thị trường tài chính song chủ yếu là gián tiếp thông qua trung gian tài chính đặc
biệt là NHTM. NHTM là một trung gian tài chính chuyên thực hiện việc đưa
người đi vy và người cho vay trong nền kinh tế gặp nhau hay nói một cách đầy
đủ hơn NHTM là loại hình tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ
tài chính đa dạng nhất, đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm, dịch vụ thanh toán và thực
hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào
trong nền kinh tế. Trong đó, hoạt động tín dụng là hoạt động chủ yếu đem lại lợi
nhuận cho ngân hàng, quyết định chủ yếu đến sự tồn tại và phất triển của ngân
hàng. Song lại rất khó có thể định nghĩa rõ ràng về tín dụng mà tuỳ theo góc độ
nghiên cứu chúng ta có thể xác định thuật ngữ này.
tín dụng ( credit) xuất phát từ chữ la tinh là credo( tin tưởng, tín nhiệm )
song trong thực tế cuộc sống thuật ngữ nàycó thể được hiểu theo nhiều nghĩa
khác nhau:
Xét trên góc độ chuyển dịch quỹ cho vay từ chủ thể thặng dư tiết kiệm
sang chủ thể thiếu hụt tiết kiệm thì tín dụng đượ coi là phương pháp chuyể dịch
quỹ từ người cho vay sang người đi vay.
Xét một quan hệ tài chính cụ thể,tín dụng là một dao dịch về tài sản
trên cơ sở có hoàn trả giữa hai chủ thể. Phổ biến hơn cả là giao dịch giữa ngân
hàng và các định chế tài chính khác, giữa các doanh nghiệp và cá nhân thể hiện
dưới hình thức cho vay, tức là ngân hàng cấp tiền vay cho bên đi vay và sau một
thời hạn nhất định ngưoaì đi vay phải thanh toán gốc và lãi.
tín dụng còn có nghĩa là một số tiền cho vay mà các định chê tài
chính cung cấp cho khách hàng.
Theo chức năng hoạt động của ngân hàng thì tín dụng được hiểu là
một giao dịch về tài sản ( tiền hoặc hàng hóa ) giữa bên cho vay ( ngân hàng và
Sinh viên thực hiện: Phan Xuân Vũ – NH44C14
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét