Thứ Tư, 26 tháng 2, 2014

225584

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Sau đại hội VI, Đảng và Nhà nước ta chủ trương đổi mới nền kinh tế
vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng
xã hội chủ nghĩa, cơ chế quản lý kinh tế cũng được chuyển đổi hoàn toàn theo
nền kinh tế. Chính vì thế, chế độ hợp đồng kinh tế - cũng được chuyển đổi.
Tren cơ sở đó, pháp lệnh hợp đồng kinh tế do Hội đồng Nhà nước , thông qua
ngày 25/9/1989 được ban hành.
Đặc điểm của pháp lệnh hợp đồng kinh tế gồm :
+ Hợp đồng kinh tế được xác lập trên cơ sở tự nguyện, bình đẳng về
quyền và nghĩa vụ, cùng có lợi và không trái pháp luật.
+ chủ thể tham gia hợp đồng kinh tế là tất cả các pháp nhân, cá nhân có
đăng ký kinh doanh, ngoài ra còn được mở rộng trong một số trường hợp đặc
biệt
+ Chủ thể có quyền tự quyết trong việc ký kết và thực hiện hợp đồng
kinh tế
+ Thể loại hợp đồng kinh tế được đa dạng hoá, bên cạnh đó còn qui
định một số hợp đồng kinh tế theo chỉ tiêu pháp lệnh áp dụng đối với các
doanh nghiệp Nhà nước hoạt động theo chỉ tiêu pháp lệnh Nhà nước giao và
chính phủ cũng có văn bản qui định riêng (Quyết định số 18/HĐBT ngày
16/1/1990 của Hội đồng bộ trưởng)
Như vậy, những điểm đổi mới của chế độ hợp đồng kinh tế thời kỳ này
đã đáp ứng yêu cầu của cơ chế quản lý nền kinh tế nhiều thành phần, bước
đầu xây dựng nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định
hướng XHCN.
Sau đây, chúng ta sẽ nghiên cứu chế độ hợp đồng kinh tế theo Pháp
lệnh hợp đồng kinh tế ngày 25/9/1989.
II. Khái quát về hợp đồng kinh tế
1. Khái niệm hợp đồng kinh tế
Trong các mối quan hệ xã hội có những quan hệ được các bên thoả
thuận thiết lập nhằm mục đích làm phát sinh những đổi thay chấm dứt quyền
Nguyễn Đức Cảnh Lớp: Luật Kinh doanh
41A
5
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
và nghĩa vụ - giữa các bên với nhau. Những mối quan hệ thuộc loại này được
gọi chung là quan hệ hợp đồng. Cũng như vậy quan hệ hợp đồng trong lĩnh
vực kinh tế được gọi là quan hệ hợp đồng kinh tế . Trong khoa học pháp lý,
hợp đồng kinh tế thường được hiểu theo hai nghĩa. Đó là nghĩa khách quan và
chủ quan.
- Theo nghĩa khách quan (tức là dưới góc độ ý chí Nhà nước ) : hợp
đồng kinh tế là tổng hợp các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành để
điều chỉnh các quan hệ kinh tế phát sinh trên cơ sở tự nguyện và bình đẳng
giữa các bên chủ thể kinh doanh với nhau (còn gọi là chế độ hợp đồng kinh tế
hay pháp luật về hợp đồng kinh tế). Chế độ hợp đồng kinh tế của nước ta
mang đặc thù của pháp luật xã hội chủ nghĩa nó bao gồm các quy phạm pháp
luật về nguyên tắc ký kết tư cách chủ thể tham gia; trình tự và thủ tục ký kết
hợp đồng kinh tế; các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng cũng như các
nguyên tắc và nội dung thực hiện; các điều kiện và cách thức giải quyết hậu
quả của việc thay đổi, huỷ bỏ, đình chỉ và thanh lý hợp đồng kinh tế; quyền
và nghĩa vụ của các bên trong việc thực hiện hợp đồng kinh tế; trách nhiệm
vật chất do vi phạm hợp đồng kinh tế.
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế , sự thay đổi của quan hệ kinh tế,
chế độ hợp đồng kinh tế cũng được thay đổi và phát triển.
- Theo nghĩa chủ quan (tức là theo ý chí của các bên ký kết hợp đồng) :
"Hợp đồng kinh tế là sự thoả thuận bằng văn bản hoặc tài liệu giao dịch giữa
các bên ký kết về thực hiện công việc sản xuất trao đổi hàng hoá, dịch vụ,
nghiên cứu , ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật và các thoả thuận khác có
mục đích kinh doanh với sự qui định rõ ràng về quyền và nghĩa vụ của mỗi
bên để xây dựng và thực hiện kế hoạch của mình" (Điều 1 - Pháp lệnh hợp
đồng kinh tế ngày 25/9/1989). Theo nghĩa này, hợp đồng là sự thống nhất ý
chí của các chủ thể hợp đồng kinh tế.
Như vậy, xét về thực chất hợp đồng kinh tế , cũng như các loại hợp
đồng khác, đều là sự thay đổi giữa các chủ thể về việc xác lập, thay đổi hoặc
Nguyễn Đức Cảnh Lớp: Luật Kinh doanh
41A
6
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
chấm dứt quyền và nghĩa vụ của các chủ thể trong các quan hệ cụ thể. Tuy
nhiên, có một số điểm khác nhau giữa hợp đồng kinh tế với các loại hợp đồng
khác về tư các chủ thể, mục đích, hình thức ký kết, thực hiện
Nguyễn Đức Cảnh Lớp: Luật Kinh doanh
41A
7
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
2. Đặc điểm hợp đồng kinh tế
Những thay đổi cơ bản trong nền kinh tế cũng như chế độ quản lý kinh
tế theo sự thay đổi những qui định của chế độ hợp đồng kinh tế để phù hợp
với tình hìh diễn biến mới trong các quan hệ kinh tế. Vì thế, những qui định
của pháp luật về hợp đồng kinh tế hiện nay có các đặc điểm để chúng ta phân
biệt với những qui định hợp đồng kinh tế trước đây. Đồng thời cũng phân biệt
với các loại hợp đồng khác. Những đặc điểm đó là :
2.1 Đặc điểm về mục đích của hợp đồng kinh tế
Hợp đồng kinh tế được ký kết nhằm mục đích kinh doanh. Mục đích
này được thể hiện trong nội dung công việc mà các bên thoả thuận trong hợp
đồng như là : thực hiện hoạt động sản xuất , trao đổi hàng hoá, dịch vụ
Điều đó có nghĩa là hợp đồng kinh tế phải gắn với quá trình sản xuất và tái
sản xuất của các chủ thể kinh doanh, trong đó ít nhất một bên ký hợp đồng
phải có mục đích kinh doanh còn bên kia có thể không có mục đích kinh
doanh nhưng không có mục đích đáp ứng nhu cầu tiêu dùng và sinh hoạt. Đặc
điểm này dùng để phân biệt hợp đồng kinh tế với hợp đồng dân sự, hơn nữa
mục đích kinh doanh là đặc trưng của các quan hệ kinh tế.
2.2 Đặc điểm về chủ thể hợp đồng kinh tế :
Theo Điều 2 - pháp lệnh hợp đồng kinh tế, thì hợp đồng kinh tế được
ký kết giữa các bên : pháp nhân với pháp nhân; pháp nhân với cá nhân có
đăng ký kinh doanh theo qui định của pháp luật. Như vậy theo qui định này
thì chủ thể ký kết hợp đồng kinh tế phải là chủ thể có điều kiện tổ chức, phải
là pháp nhân và luôn phải là một bên ký kết, còn bên kia có thể là cá nhân có
đăng ký kinh doanh.
Cá nhân có đăng ký kinh doanh được hiểu là cá nhân được cơ quan Nhà
nước có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh.
2.3 Đặc điểm về hình thức hợp đồng kinh tế
Hợp đồng kinh tế có thể ký kết dưới hình thức văn bản hợp đồng hoặc
tài liệu giao dịch (như công văn, điện báo, đơn chào hàng, đặt hàng). Ngoài ra
Nguyễn Đức Cảnh Lớp: Luật Kinh doanh
41A
8
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
các bên có thể ký kết các văn bản phụ lục hợp đồng cụ thể hoá các điều kiện
trong hợp đồng hoặc biên bản bổ sung những điều khoản mới thoả thuận vào
văn bản hợp đồng. Phụ lục hợp đồng và biên bản bổ sung có giá trị pháp lý
như hợp đồng kinh tế.
3. Phân loại hợp đồng kinh tế
Dựa trên những căn cứ khác nhau mà hợp đồng kinh tế được phân
thành nhiều loại khác nhau.
3.1 Căn cứ và tính chất của quan hệ hợp đồng, hợp đồng kinh tế gồm
các loại sau:
* Hợp đồng kinh tế mang tính chất đền bù :
Là loại hợp đồng mà theo đó quyền và nghĩa vụ của các bên tương
xứng nhau (quyền của bên này là nghĩa vụ của bên kia và ngược lại). Trong
quan hệ hợp đồng, một bên có nghĩa vụ giao hàng hoá, thực hiện dịch vụ hoặc
kết quả công việc đã thoả thuận, bên kia có nghĩa vụ nhận hàng hoá hoặc kết
quả đó và thanh toán tiền. Đây là loại hợp đồng phản ánh quan hệ hàng hoá -
tiền tệ với bản chất là quan hệ ngang giá và được sử dụng trong các lĩnh vực
như la trao đổi hàng hoá; vận chuyển hàng hoá
* Hợp đồng kinh tế mang tính tổ chức :
Là loại hợp đồng được xác lập trên cơ sở sự đồng ý của cơ quan Nhà
nước có thẩm quyền, các chủ thể kinh doanh có thể thoả thuận với nhau lập ra
một cơ sở kinh tế - kỹ thuật mới để thực hiện mục đích chung. Hợp đồng này
không phản ánh quan hệ hàng hoá tiền tệ, không mang tính chất đền bù. Các
bên chủ thể có thể thoả thuận góp vật chất, góp sức lao động để lập ra cơ sở
kinh doanh mới. Song chủ thể của loại hợp đồng này phải có tư cách pháp
nhân đầy đủ. Tuỳ theo tính chất của tổ chức, hợp đồng không chỉ có 2 bên chủ
thể mà có nhiều bên cùng tham gia.
3.2 Căn cứ vào thời hạn thực hiện hợp đồng, hợp đồng kinh tế chia
làm 2 loại :
* Hợp đồng kinh tế dài hạn :
Nguyễn Đức Cảnh Lớp: Luật Kinh doanh
41A
9
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Là những hợp đồng kinh tế có thời hạn thực hiện từ 1 năm trở lên nhằm
thực hiện kế hoạch dài hạn
* Hợp đồng kinh tế ngắn hạn :
Là những hợp đồng kinh tế có thời hạn thực hiện từ 1 năm trở xuống,
gồm hợp đồng năm, nửa năm, quý, tháng để thực hiện kế hoạch năm và
những phần kế hoạch trong năm.
Như vậy, tuỳ theo đối tượng của hợp đồng, tính chất của mối quan hệ,
giá cả thị trường mà các chủ thể có thể ký kết hợp đồng ngắn hạn hay dài
hạn.
3.3. Căn cứ vào tính kế hoạch của hợp đồng, hợp đồng kinh tế gồm:
* Hợp đồng kinh tế theo chỉ tiêu pháp lệnh :
Là những hợp đồng kinh tế được ký kết nhằm thực hiện chỉ tiêu pháp
lệnh do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền giao cho các doanh nghiệp Nhà
nước. Việc ký kết hợp đồng kinh tế giữa những đơn vị kinh tế được giao
nhiệm vụ kế hoạch là nghĩa vụ, là kỷ luật của Nhà nước. Hợp đồng này mang
tính kế hoạch cao, vì thế, tính tự nguyện và bình đẳng giữa các chủ thể của
hợp đồng bị hạn chế. Tuy nhiên, trong cơ chế mới loại hợp đồng này không
còn được áp dụng phổ biến nữa mà chỉ những doanh nghiệp Nhà nước hoạt
động công ích mới thực hiện nhiệm vụ kế hoạch Nhà nước giao.
* Hợp đồng kinh tế thông thường :
Loại hợp đồng này được ký kết theo nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng,
các bên cùng có lợi . Việc ký kết hợp đồng là quyền tự do ý chí của các đơn vị
kinh tế , không một tổ chức hay cá nhân nào được áp đặt ý chí của mình cho
các đơn vị kinh tế khác. Trong cơ chế mới này, loại hợp đồng này được áp
dụng rất phổ biến.
3.4 Căn cứ vào nội dung giao dịch của quan hệ hợp đồng gồm:
* Hợp đồng mua bán hàng hoá
Là hợp đồng mà theo đó bên bán có nghĩa vụ chuyển giao hàng hoá và
quyền sở hữu đối với hàng hoá đó cho bên mua theo đúng điều kiện đã thoả
Nguyễn Đức Cảnh Lớp: Luật Kinh doanh
41A
10
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
thuận trong hợp đồng, còn bên mua có nghĩa vụ nhận hàng hoá và thanh toán
tiền hàng. Quan hệ hợp đồng này là quan hệ trao đổi hàng hoá, gọi là quan hệ
hàng hoá - tiền tệ
* Hợp đồng vận chuyển hàng hoá
Là hợp đồng mà theo đó bên vận tải hàng hoá có nghĩa vụ vận chuyển
hàng hoá nhất định đến địa điểm đã ấn định để giao cho bên nhận hàng, còn
bên thuê vận chuyển có nghĩa vụ trả cho bên vận tải một khoản tiền nhất định
gọi là cước phí vận chuyển.
* Hợp đồng xây dựng cơ bản :
Là hợp đồng kinh tế trong đó bên nhận thầu có nghĩa vụ xây dựng và
bàn giao cho bên giao thầu toàn bộ công trình theo đúng đồ án thiết kế và thời
hạn như đã thoả thuận trong hợp đồng, còn ben giao thầu có nghĩa vụ bàn
giao mặt bằng xây dựng , các bản thiết kế và đầu tư xây dựng đúng tiến độ
đồng thời có nghĩa vụ nghiệm thu công trình và thanh toán cho bên nhận thầu.
Hợp đồng này mang tính chất đền bù.
* Hợp đồng dịch vụ :
Là hợp đồng kinh tế theo đó bên cung cáp dịch vụ có nghĩa vụ thực
hiện hành vi nhất định phù hợp với ngành nghề đã đăng ký để thoả mãn nhu
cầu của bên thuê dịch vụ và được hưởng khoản tiền công nhất định gọi là phí
dịch vụ, còn bên thuê dịch vụ có nghĩa vụ tiếp nhận kết quả dịch vụ và thanh
toán cho bên thuê dịch vụ phí như đã thoả thuận.
Tóm lại, trên đây là những hợp đồng kinh tế cụ thể được áp dụng phổ
biến trong thực tiễn đời sống kinh tế của nước ta hiện nay.
4. Nguồn văn bản hiện hành của chế độ hợp đồng kinh tế
1- Nghị định số 735/TTg ngày 10/4/1960 ban hành điều lệ về hợp đồng
kinh doanh.
2- Nghị định 04/TTg ngày 04/1/1960 ban hành điều lệ tạm thời về chế
độ hợp đồng kinh tế giữa các xí nghiệp quốc doanh và cơ quan Nhà nước.
Nguyễn Đức Cảnh Lớp: Luật Kinh doanh
41A
11
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
3- Nghị định 54/CP ngày 10/3/1975 ban hành điều lệ về chế độ hợp
đồng kinh tế
4- Pháp lệnh hợp đồng kinh tế ngày 25/9/1989
5- Nghị định 17/HĐBT ngày 16/1/1990 của Hội đồng bộ trưởng qui
định chi tiết thi hành pháp lệnh hợp đồng kinh tế
6- Quyết định 18/HĐBT ngày 16/1/1990 của Hội đồng bộ trưởng về
việc ký kết và thực hiện hợp đồng kinh tế theo chỉ tiêu pháp lệnh.
Sau đây chúng ta sẽ tìm hiểu sâu hơn về chế độ pháp lý về hợp đồng
kinh tế
III. Chế độ pháp lý về hợp đồng kinh tế
1. Chế độ ký kết về hợp đồng kinh tế
1.1 Nguyên tắc ký kết hợp đồng kinh tế
Theo điều 3 - Pháp lệnh hợp đồng kinh tế : "Để bảo vệ quyền và nghĩa
vụ chính đáng của các bên tham gia quan hệ hợp đồng, bảo vệ lợi ích của xã
hội, việc ký kết hợp đồng kinh tế được pháp luật quy định, phải tuân theo
những nguyên tắc nhất định được quy định trong chế độ pháp lý về hợp đồng
kinh tế" thì ký kết hợp đồng kinh tế phải tuân thủ các nguyên tắc sau :
1.1.1 Nguyên tắc tự nguyện
Nguyên tắc này là quyền tự do ý chí (tự do khế ước) của các chủ thể
kinh doanh được pháp luật cho phép để làm phát sinh quan hệ hợp đồng kinh
tế mà không có sự áp đặt ý chí của các bên với nhau hoặc của tổ chức, cá
nhân khác nhau. Việc tham gia hợp đồng hay không là do các bên toàn quyền
định đoạt. Mọi sự ép buộc ký kết hợp đồng kinh tế giữa bên này đối với bên
kia - đều làm cho hợp đồng kinh tế vô hiệu.Do đó, tự nguyện là nguyên tắc
bắt buộc phải có và cũng là nguyên tắc của hầu hết các loại hợp đồng. Theo
nguyên tắc này , việc ký kết hợp đồng kinh tế phải là mong muốn thực sự của
các bên tham gia nhằm đạt được mục đích nhất định. Theo đó, các bên có
quyền lựa chọn bạn hàng, lựa chọn địa chỉ cung ứng vật tư, thời điểm ký kết
hợp đồng cũng như nội dung ký kết Quan hệ hợp đồng kinh tế chỉ được coi
Nguyễn Đức Cảnh Lớp: Luật Kinh doanh
41A
12
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
là hình thành và có giá trị pháp lý nếu có sự thoả thuận giữa các bên được
thực hiện trên cơ sở tự nguyện của các bên.
Tại điều 4 - Pháp lệnh hợp đồng kinh tế qui định : "Ký kết hợp đồng
kinh tế là quyền của các đơn vị kinh tế. Không một cơ quan, tổ chức, cá nhân
nào được áp đặt ý chí của mình cho đơn vị kinh tế khi ký kết hợp đồng.
Không một đơn vị nào được phép lợi dụng ký kết hợp đồng kinh tế để hoạt
động trái pháp luật". Đây là một quy định thể hiện sự đổi mới rõ rệt của chế
độ hợp đồng kinh tế , nhằm đảm bảo thực sự quyền tự chủ, tự do ký kết hợp
đồng, đó là "quyền của các chủ thể - chứ không phải là "nghĩa vụ" của họ như
trước đây.
Nguyên tắc này không áp dụng đối với hợp đồng kinh tế theo chỉ tiêu
pháp lệnh của Nhà nước, bởi vì theo loại hợp đồng này bị chỉ tiêu pháp lệnh
chi phối rất cao. Và hiện nay, quyền tự do giao kết hợp đồng kinh tế chỉ bị
giới hạn bởi các điều kiện sau :
- Việc ký kết hợp đồng kinh tế phải phục vụ hoạt động kinh doanh đã
đăng ký, tức là các chủ thể chỉ được hoạt động kinh doanh trong phạm vi
chức năng của mình.
- Các bên không được lợi dụng quyền tự do ký kết hợp đồng kinh tế để
hoạt động trái pháp luật , có nghĩa các bên không được làm những gì mà pháp
luật cấm.
- Việc ký hợp đồng kinh tế theo chỉ tiêu kế hoạch pháp lệnh là bắt
buộc, tức là các đơn vị kinh tế Nhà nước giao cho chỉ tiêu pháp lệnh thì có
nghĩa vụ ký kết hợp đồng kinh tế để thực hiện chỉ tiêu kế hoạch pháp lệnh đó.
Như vậy, có thể thấy rằng hiện nay Nhà nước chỉ can thiệp vào các
quan hệ hợp đồng kinh tế bằng pháp luật chứ không dùng mệnh lệnh hành
chính như trước đây nữa.
1.1.2 Nguyên tắc bình đẳng cùng có lợi
Theo nguyên tắc này, khi ký kết hợp đồng kinh tế , các chủ thể hợp
đồng có quyền và nghĩa vụ ngang nhau mà pháp luật qui định để thoả thuận
Nguyễn Đức Cảnh Lớp: Luật Kinh doanh
41A
13
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
những vấn đề mà các bênquan tâm nhằm đạt được mục đích cuối cùng là thiết
lập quan hệ hợp đồng kinh tế, hay nói cách khác , các chủ thể có vai trò như
nhau dù họ có địa vị pháp lý khác nhau.
Biểu hiện của nguyên tắc bình đẳng về quyền và nghĩa vụ của các bên
được thể hiện ngay trong quá trình đàm phán ký kết hợp đồng kinh tế. Các
bên đều có quyền đưa ra yêu cầu của mình và cũng có quyền chấp nhạn hay
không chấp nhận ý kiến của bên kia. Thực hiện nguyên tắc này không phụ
thuộc quan hệ sở hữu và quan hệ quản lý của các chủ thể hợp đồng, bát kể họ
thuộc thành phần kinh tế nào, do cấp nào quản lý, thì khi ký hợp đồng điều
bình đẳng với nhau về quyền và nghĩa vụ, cùng có lợi trên cơ sở thoả thuận và
phải chịu trách nhiệm vật chất nếu vi phạm hợp đồng đã ký kết. Quan hệ hợp
đồng kinh tế chỉ được coi là hình thành khi các bên thống nhất ý chí với nhau
về tất cả các điều khoản trong hợp đồng.
Tuy nhiên, bình đẳng về quyền và nghĩa vụ ở đây phải song hành với tư
tưởng hai bên cùng có lợi nhưng không nhất thiết các bên phải lợi ích như
nhau mà mỗi bên đều có lợi ích riêng theo mục đích của mình, đồng thời, nó
đòi hỏi các bên phải biết tôn trọng lợi ích của nhau, không thể để lợi ích của
bạn hàng lấn át lợi ích của mình và ngược lại không để lợi ích của mình lấn át
lợi ích của bạn hàng. Vì thế, đây chính là tư tưởng giúp cho quan hệ được làm
ăn lâu dài.
1.1.3 Nguyên tắc trực tiếp chịu trách nhiệm vật chất và không trái pháp
luật
- Trực tiếp chịu trách nhiệm tài sản có nghĩa là nếu có vi phạm hợp
đồng kinh tế, thì bên vi phạm hợp đồng phải chịu trách nhiệm trả tiền phạt và
bồi thường thiệt hại (nếu có thiệt hại xảy ra) cho bên bị vi phạm bằng chính
tài sản của mình mà không phụ thuộc vào cơ quan, tổ chức, cá nhân có lỗi đã
gây ra vi phạm đó, trừ các trường hợp miễm giảm trách nhiệm vật chất. Có
nghĩa là, khi hợp đồng kinh tế được ký kết thì các bên phải có nghĩa vụ thực
hiện đúng những điều khoản đã cam kết trong hợp đồng. Nguyên tắc này
Nguyễn Đức Cảnh Lớp: Luật Kinh doanh
41A
14

Xem chi tiết: 225584


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét