Thứ Hai, 24 tháng 2, 2014

TÍN NGƯỠNG THỜ MẪU CỦA DÂN TỘC VIỆT NAM

Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel : 0918.775.368
Trờng Đại học khoa học xã hội và Nhân văn
Đại học Quốc gia Hà Nội
Bài tiểu luận
Môn: Phong tục tập quán lễ hội
Đề tài: Tín ngỡng thờ Mẫu của dân tộc Việt Nam
Mở đầu
Phong tục tập quán lễ hội là một bộ phận quan trọng cấu thành nên
văn hoá xã hội, nó gắn bó mật thiết, sâu sắc với mọi tầng lớp ngời trong xã
hội. Nớc ta với nền văn minh lúa nớc rất đặc trng thì phong tục, tập quán, tín
ngỡng đã trở thành một bộ phận trong đời sống tinh thần. Hàng ngàn năm xa,
từ thời nguyên thuỷ đã hình thành nên các phong tục tập quán đó và phát
triển đến ngày nay và chúng ta có thể khẳng định rằng không một gia đình
ngời Việt nào lại không có bàn thờ cúng Tổ tiên, không một làng xã nào lại
không có một ngôi đình, đền, miếu thờ các vị Hoàng Làng, các anh hùng dân
tộc hay thờ Mẫu.
Nớc Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc, với 54 dân tộc anh em với
54 phong tục tập quán riêng, mang sắc thái riêng biệt mà không nơi nào
giống nơi nào nhng vẫn thống nhất một phong tục Việt nh: tục cới hỏi của
ngời Mờng, ngời Thái, các kiêng kị dân gian hay mỗi nơi có những lễ hội vào
các dịp khác nhau trong năm.
Cứ đời này qua đời khác, các tín ngỡng phong tục trở thành mảng sinh
hoạt tinh thần không thể thiếu trong đời sống ngời Việt. Những giá trị tinh
thần này đã khẳng định một bản sắc và sự trờng tồn của văn hoá Việt trong
văn hoá thế giới.
Ngày nay, với xu thế hội nhập thế giới, văn hoá Việt đợc tiếp cận với
nhiều nền văn hoá ở các châu lục, các quốc gia trên thế giới, chúng ta có cơ
hội giao lu với các nền văn hoá tiến bộ từ đó sẽ phát huy những bản sắc văn
hoá tốt đẹp của dân tộc. Tuy nhiên, nó cũng đặt ra các vấn đề về bảo vệ nền
văn hoá truyền thống, giữ gìn và tôn tạo thêm bản sắc văn hoá của đất nớc để
phát huy những phong tục hay và loại bỏ những hủ tục trong dân gian từ bao
đời nay.
2
Tín ngờng thờ Mẫu là một tín ngỡng quan trọng trong đời sống ngời
Việt: Tháng tám giỗ Cha, tháng ba giỗ Mẹ. Nền văn minh lúa nớc rất coi
trọng bàn tay khéo léo của ngời phụ nữ, và từ xa xa ngời mẹ đã trở thành thân
thuộc nhất với con ngời. Tín ngỡng thờ Mẫu là sự tôn vinh thờ phụng gắn với
các hiện tợng tự nhiên, vũ trụ nh trời, đất, ma, gió.ngoài ra còn thờ phụng
những vị nữ anh hùng dân tộc (về giai đoạn sau này).
3
Phụ lục
1/ Lịch sử và phát triển
2/ Nghi lễ thờ cúng
3/ Cấu trúc đền thờ và ban thờ
4/ Thánh Mẫu Liễu Hạnh
5/ Các vị thần khác của Đạo Mẫu
4
1/ Lịch sử và phát triển
Tín ngỡng thờ Mẫu là sự tin tởng, ngỡng mộ, tôn vinh và thờ phụng
những vị nữ thần gắn với các hiện tợng tự nhiên, vũ trụ đợc ngời đời tôn vinh
là cá chức năng sáng tạo ra muôn loài và mang sự sống đến cho con ngời nh:
Trời, đất, sông nớc.
Nguồn gốc lịch sử của tín ngỡng thờ Mẫu không đợc ghi chép rõ ràng
trong sách mà nó chỉ là sự truyền miệng của dân gian về ngời phụ nữ đó. Có
một số nhà nghiên cứu cho rằng tục thờ Mẫu có nguồn gốc từ thời Tiền sử
khi ngời Việt thờ các thần linh thiên nhiên, các thần linh này kết hợp trong
khái niệm Thánh Mẫu hay còn gọi là nữ thần Mẹ. Theo thời gian khái niệm
Thánh Mẫu đợc mở rộng để bao hàm các nữ anh hùng trong dân gian - những
ngời phụ nữ nổi lên trong lịch sử với vai trò ngời bảo hộ hoặc trị bệnh. Những
nhân vật lịch sử này đợc kính trọng, tôn thờ và cuối cùng đợc thần thánh háo
để trở thành một trong các hiện thân của Thánh Mẫu.
Sự phát triển của tín ngỡng thờ Mẫu đợc phân chia thành 3 giai đoạn
sau( theo tài liệu của Ngô Đức Thịnh).
Giai đoạn 1: Thờ các nữ thần thiên nhiên riêng biệt, các nữ thần này là
các tinh thần thiên nhiên và không có đặc điểm của con ngời đặc biệt là ngời
phụ nữ, ngời mẹ.
Giai đoạn 2: Thờ các Thánh Mẫu, đến giai đoạn này các nữ thần đã có
đặc điểm của ngời Mẹ nh Mẹ Âu Cơ - ngời Mẹ của dân tộc Việt Nam.
Giai đoạn 3: Thờ Thánh Mẫu Tam phủ, Tứ phủ. ở đây phủ không
phải là khái niệm số lợng xây dựng mà nó chính là 3 hay 4 thành tố của vũ
trụ là: Trời (Thiên phủ), Đất (Địa phủ), Nớc (Thuỷ phủ), Núi rừng (Nhạc
phủ).
2/ Nghi lễ thờ cúng
5
Các vị thần trong tín ngỡng thờ Mẫu phản ánh đợc tất cả các phẩm
chất của một ngời mẹ, tuy nhiên nó đợc thần thánh hoá và mang rõ sắc thái
huyền thoại do đó nó vùa thần thánh lại vừa con ngời. Đạo Mẫu không chú
trọng vào cuộc sống sau khi chết mà nó quan tâm đến cuộc sống hiện tại nó
luôn trăn trở với câu hỏi làm thế nào để con ngời có một cuộc sống ấm no,
hạnh phúc, đầy đủ trong trần gian. Điều này thể hiện trong các bài kinh lễ
thực ra đây là các bài hát về nhiều điều mà con ngời mong muốn trong cuộc
sống hàng ngày nh: cầu mong thời tiết tốt lành cho mùa màng bội thu, cầu
mong sức khoẻ cho con ngời, hạnh phúc, tiền tài.Nội dung của các bài cầu
này đơn giản dễ hiểu, và đợc dùng phổ biến trong dân gian.
Đạo Mẫu đợc tổ chức theo âm lịch với rất nhiều tín đồ và lôi cuốn rất
nhiều ngời tham gia với nhiều nghi lễ truyền thống. Các nghi lễ này không đ-
ợc đào tạo chính thống mà nó đợc truyền từ đời này qua đời khác bằng con đ-
ờng truyền khẩu. Nghi lễ phổ biến nhất là lên đồng hay còn gọi là hầu bóng.
Trong nghi lễ này ngời ta tin rằng linh hồn của các vị thần sẽ nhập vào ngời
lên đồng, linh hồn này đợc mời đến để nghe lời cầu của ngời đi lễ. Với hoạt
động này ngời phụ nữ thờng đóng vai trò chính và đợc gọi là các Bà đồng,
đôi khi cũng do nam giới đảm nhiệm gọi là các Ông đồng.
Các điệu múa linh thiêng hay gọi là các giá đồng là phần quan trọng
nhất của nghi lễ. Thờng là có 72 giá đồng bao gồm: giá các quan lớn, giá các
cậu, giá các cô, giá chầu bàTrong buổi lễ các giá đồng đợc biểu diễn cùng
các bài hát chầu văn (hay hát văn). Đây là một thể loại hát nói (vừa thực
hiện hát, vừa nói) để kể lể, cầu xin.Hát văn do ngời lên đồng biểu diễn
cùng với dàn nhạc cung văn tạo nên một khung cảnh và âm nhạc tâm linh để
giúp cho ngời đồng nhập vào gắn kết với những con ngời và nơi chốn ở bên
ngoài thế giới của họ. Khi lên đồng ngời ta có thể cầu xin mong ớc và nghe
các Thánh Mẫu truyền dạy những điều hay, lẽ phải.
Thời gian lên đồng có thể kéo dài 1-2 tiếng hay cả buổi cúng lễ, mọi
lời nói lúc này chính là lời nói của Thánh Mẫu.
6
Ngời ngồi đồng phải tự sắm nhiều bộ quần áo khi ngồi chầu ông hoặc
bà nào thì phải mặc quần áo phù hợp giống ngời đó khi họ còn sống nh
Thánh Mẫu Thợng Ngàn phải mặc quần áo dân tộc.Ngời ngồi đồng phải có
chiếc khăn phủ kín mặt, tay cầm 3 nén nhang đang cháy trớc mặt hớng lên
điện thờ. Khi ra tay báo hiệu là lúc Thánh nhập, nếu ra hiệu tay trái là Thánh
nam nhập còn nếu tay phải là Thánh nữ nhập. Tuỳ theo sự tởng tợng của ngời
lên đồng là thánh nam hay nữ mà có thể biểu diễn các động tác tiến lên lùi
xuống, múa quạt hay múa kiếm
Cuối giá đồng bgời lên ban lộc thuốc lá, kẹo, trầu cau, tiền cho những
ngời xung quanh.
Thờ Mẫu thờng có hai dịp chính trong năm đây cũng là lễ hội lớn của
dân tộc: tháng Tám giỗ Cha, tháng Ba giỗ Mẹ kỷ niệm ngày mất của Đức
Thánh Trần( Trần Hng Đạo) và Thánh Mẫu Liễu Hạnh, ngoài ra con rất
nhiều dịp lễ hội khác và đặc biệt tại các đền, phủ cứ ngày mùng Một và ngày
Rằm( âm lịch) ngời ta thờng dâng đồ cúng để tạ ơn và cầu khẩn phúc lộc.
3/ Cấu trúc đền thờ và ban thờ
Tín ngỡng thờ Mẫu ra đời trên cơ sở nữ thần đợc thờ trong đền, chùa,
miếu, điện. Riêng Thánh Mẫu Liễu Hạnh đựơc thờ trong phủ: phủ Giầy(Nam
Định), phủ Tây Hồ( Hà Nội).
Do ảnh hởng của đạo giáo Trung Quốc, tín ngỡng thờ Mẫu của nớc ta
phát triển thành tín ngỡng Tam phủ gồm: Thiên phủ(miền trời), Nhạc
phủ(miền rừng núi), Thuỷ phủ(miền sông nớc); Tứ phủ gồm 3 phủ trên nhng
thêm Địa phủ( miền đất đai). Mẫu Thợng Thiên cai quản miền trời, Mẫu Th-
ợng Ngàn cai quản miền núi rừng, Mẫu Thoải cai quản miền sông nớc, Mẫu
Địa cai quản miền đất đai. Trên cơ sở này cùng với sự ra đời của Thánh Mẫu
Liễu Hạnh, một tôn giáo bản địa sơ khai đợc hình thành đó là đạo Mẫu. Điện
7
thần của Đạo Mẫu có hàng chục vị thần linh nhng đều quy tụ dới sự điều
khiển của Tam Toà Thánh Mẫu.
Kiến trúc phủ Thợng Đoạn:
Phủ Thợng Đoạn nằm trên đất xã Đông Hải, huyện Hải An, thành phố
Hải Phòng, đây là nơi thờ Mẫu- một trong tứ linh từ theo tín ngỡng của ngời
Việt.
Phủ Thợng Đoạn là kiến trúc cổ tơng đối có quy mô, mặt quay về hớng
Nam trong t cách thánh nhân nam điện nhứ thinh thiên hạ nghĩa là: thánh
nhân ngồi quay hớng Nam mà nghe thiên hạ tâu bày.
Mở đầu phủ là một giếng nớc- điểm tụ thuỷ nhằm tích đức cho thế đất,
điện thờ chính có 3 lớp, toà ngoài 5 gian là nơi tập trung nghệ thuật chạm
khắc thể hiện các đề tài hổ phù- một biểu tợng phồn thực.tất cả đợc tạo bởi
các mảng to, nhỏ, nông sâu tạo nét hoành tráng cho một chỉnh thể nghệ
thuật.
Mẫu đợc thờ ở toà hậu cung dới dạng Tam phủ hay còn gọi là Tam
Toà Thánh Mẫu với Mẫu Thợng Thiên- hoá thân của Liễu Hạnh ngồi ở trung
tâm, bên trái là Mẫu đệ nhị- Thợng ngàn phủ, bên phải là Mẫu đệ tam- Thoải
phủ. Qua bàn thờ này có thể thấy rằng Mẫu Thợng thiên là lực lợng sáng tạo
ra trời và đặt quy luật vận động của trời đất, vũ trụ, Mẫu Thợng ngàn sáng tạo
ra núi rừng- nguồn của cải vô biên ban phát cho con ngời ngoài ra còn là nơi
chuyển tiếp cho các kiếp đời đã qua thành các cô, các cậu. Đây là biểu hiện
rõ nét cho tinh thần nhân đạo của con ngời vừa lo cho cuộc sống trớc mắt vừa
lo cho ngời chết. Mẫu Thoải là lực lợng sáng tạo ra nguồn nớc- thể hiện rõ
nét nhất của nền văn minh lúa nớc của c dân Việt.
Trong ban thờ đợc sắp xếp với các vị trí rõ ràng: Mẫu Thợng Thiên
choàng khăn đỏ ngồi giữa, Mẫu Thợng Ngàn choàng khăn xanh bên trái và
bên phải là Mẫu Thoải với khăn choàng màu trắng.
8
Hiện nay, có rất nhiều nơi thờ Mẫu nh: Phủ Giầy ( Nam Định), phủ
Tây Hồ ( Hà Nội), và các đền nh: Đền Sòng (Thanh Hoá), đền Lộ (Hà Nam)
.
Cũng nh c dân trên thế giới ngời Việt khi định c ở đồng bằng Sông
Hồng đã xem trời là cha, đất là mẹ, ngời cha hung dũ, gầm thét với những
cơn bão tố và ngời mẹ thì nhẹ nhàng đón tất cả những gì ngời cha đa xuống
để làm sống cho muôn loài, muôn vật. Hầu nh cái gì cũng có 2 mặt trời- đất,
sáng- tối, nam- nữ. Hai mặt này không đối lập mà bổ trợ cho nhau cùng phát
triển
Ngoài ra bàn thờ Mẫu còn có cả một hệ thống đầy đủ:
+ Hệ thống sáng tạo là Tam Toà Đức Mẹ
+ Ngũ vị tôn ông: 5 quan lớn đợc coi là lực lợng thực hiện ý đồ của
Mẫu ở 5 phơng
+ Tứ phủ quan hoàng: thứ bậc dới ngũ vị tôn ông
+ Tứ phủ Thánh cô, tứ phủ Thánh cậu đều có 11 cô, 11 cậu là những
phụ tá của Mẫu
4/ Thánh Mẫu Liễu Hạnh
Mẫu Liễu Hạnh đợc xem nh ngời Mẹ linh thiêng của dân tộc Việt
Nam và huyền thoại về nhân vật này cũng có nhiều dị bản khác nhau. Sau
đây là một trong các huyền thoại Mẫu Liễu Hạnh:
Mẫu Liễu vốn là đệ nhị tiên chủ Quỳnh Nơng ở chốn thiên cung vì
pham phải lỗi nhỏ là làm vỡ một chiếc chén ngọc bị khép tội và đày xuống
cõi trần thác sinh vào nhà họ Lê ở Phủ Giầy, Vụ Bản, Nam Định khoảng năm
1557 và đặt tên là Giáng Tiên do Lê Công mơ thấy có thiên sứ áp dẫn ông về
trời tại đây ông chứng kiến cảnh Quỳnh Nơng tiên chúa làm vỡ chén ngọc bị
Ngọc Hoàng đầy xuống trần 21 năm. Và khi tỉnh dậy thấy vợ sinh con ông
cho là ứng nghiệm. Đến năm 18 tuổi bà đợc gả cho Đào Lang. Hai ngời sinh
9
đợc hai con một trai, một gái. Giữa lúc hơng lửa đang nồng thì hết hạn bà
phải quay về trời. Nhớ thơng chồng con bà thờng chau mày nhỏ lệ, các tiên
nữ động lòng tâu lên với Ngọc Hoàng và Ngời đã phong bà là Liễu Hạnh
công chúa và cho xuống hạ giới, bà về thăm cha mẹ đẻ, cha mẹ chồng và lên
kinh đô thăm chồng con. Bà khuyên chồng về tu thân tề gia, sống với nhau
một đêm rồi chia tay hẹn gặp nhau ở kiếp sau.Nh mây nổi lng trời, bà không
ở một nơi nào nhất định. Có khi bà giả làm gái đẹp thổi tiêu dới trăng, có khi
làm bà già tựa gốc cây trúc bên đờng, ngời nào đùa cợt tất bị vạ, ngời nào
mang lễ cầu đảo tất đợc phớc lành. Khi cha mẹ đẻ và cha mẹ chồng qua đời,
con cái đã trởng thành, bà đi chu du thiên hạ, tìm nơi danh thắng, đem cảnh
núi non làm cảnh tiên gia. Bà hoá phép để cùng đàm đạo văn chơng với danh
sĩ Phùng Khắc Khoan ở Lạng Sơn, Tây Hồ khiến trạng chia tay rồi mà vẫn
hoài vọng. Bà vào Nghệ An đến làng Sóc kết duyên cùng th sinh là kiếp sau
của Đào Lang - chồng cũ khuyên ngời này học hành đi thi, đến thời hạn là
phải về trời.
Trên cung đình, bà lại nhớ duyên ớc ba sinh, liền xin Ngọc Hoàng một
lần nữa đợc giáng sinh cho thoả nguyện sinh hoá khôn lờng, ngao du tuỳ
thích. Đợc phép bà cùng hai thị nữ Quế và Thị nhằm phố Cát Thanh Hoá
là nơi núi non xinh đẹp, có đờng thiên lý Bắc Nam đi qua. Tiên chúa th-
ờng hiển linh ở đây, ngời lành đợc hởng phúc, kẻ ác gặp tai vạ. Thấy vậy,dân
chúng sợ hãi, lập đền thờ phụng. Đời Cảnh Thịnh (1793 - 1802), triều đình
nghe tin đồn, tởng là yêu quái, sai quân Vũ Lâm cùng thuật sĩ về tiễu trừ. ít
lâu sau, vùng này sinh dịch bệnh cho ngời và gia súc. Nhân dân lập đàn cầu
đảo, bỗng bà hiện lên trên trên đàn ba tầng quát to: Ta là tiên nữ trên trời,
hiển thánh xuống trần, các ngơi phải xin triều đình lập lại đền mới, ta sẽ trừ
tai, cho phúc. Nừu không nghe lời thì vùng này sẽ không ai sống sót. Triều
đình cho là thiêng và lạ, lập tức hạ lệnh cho phép làm lại đền mới ở trong núi
Phố Cát, sắc phong cho bà là Mã Hoàng công chúa. Nhân dân địa phơng cầu
phúc đều báo ứng ngay. Sau này, quân nhà vua đi tiễu trừ giặc bà thờng giúp
10
sức. Triều đình gia tặng là Chế Thắng Hoà Diệu Đại Vơng. Nhân dân tôn bà
là Thánh Mẫu. Từ hàng trăm năm nay, Mẫu Liễu đã đợc liệt vào một trong
Tứ bất tử của thần linh đất Việt.
Hàng năm, vào thợng tuần tháng 3 âm lịch (chính hội là 3/3) du khách
thập phơng nô nức hành hơng về hội Phủ Giầy, nơi thờ đức Thánh Mẫu Liễu
Hạnh ngời Mẹ linh thiêng của dân tộc Việt. Du khách về dự lễ hội Phủ
Giầy vừa để dự ngày giỗ Mẹ vừa thoả nguyện tâm linh và đợc ngắm nhìn một
quần thể kiến trúc lăng chùa truyền thống vô cùng độc đáo. Hội phủ Giầy
thực sự hấp dẫn du khách bởi sự đan xen, hoà quyện giữa những nghi thức
trang trọng cùng những hoạt động văn hoá dân gian sôi nổi, đặc sắc. Tiêu
biểu nhất trong lễ hội Phủ Giầy là nghi lễ rớc Thánh Mẫu từ phủ chính (Tiên
Hơng) lên chùa Gôi vào ngày 6/3. Đám rớc Thánh Mẫu dài gần 1km rất trang
trọng có đội ngũ hoa, nhạc, có phờng bát âm. Đến 7/3 sinh hoạt văn hoáhoa
trợng hội đây là nét độc đáo nhất của lễ hội. Mỗi lần xếp chữ gồm 100 phu
cờ mặc đồng phục, chít khăn đỏ, áo vàng, thắt lng xanh, quần trắng, xà cạp
đỏ. Mỗi ngời cầm cây gậy dài khoảng 2m, ngời điều khiển gọi là tổng cờ, vào
cuộc chủ lễ xin Mẫu ra chữ sau đó theo nhịp trống chiêng rộn rã xếp thành
những dòng chữ nho đầy ý nghĩa. Hoà trong không khí sinh hoạt tinh thần
dân gian, du khách còn đợc xem rớc kiệu bát cống long đình, xem múa rồng
ở trên núi Tiên Hơng Và khi màn đêm buông xuống du khách sẽ đợc đắm
mình trong những điệu chầu văn tha thiết cùng những đèn trời đợc thả lung
linh sắc màu huyền ảo. Về với hội Phủ Giầy chúng ta nh đợc trở về với cội
nguồn dân tộc, bởi nơi đây quy tụ nhiều tinh hoa văn hoádân tộc ngàn đời
nay.
Thánh Mẫu Liễu Hạnh đã trở thành biểu tợng cho sức mạnh của phụ
nữ, bà tách mình ra khỏi Khổng giáo trọng nam khinh nữ. Bà nhấn mạnh vào
hạnh phúc, quyền đi lại tự do và độc lập t tởng. Vừa đợc kính sợ vừa đợc yêu
mến các nguyên tắc của bà về trừng phạt kẻ xxấu và ban thởng ngời tốt đã
gửi một thông điệp vef sự bảo vệ và hy vọng vào công bằng xã hội cho nhân
11
dân trong thời loạn lạc. Vừa là thân tiên vừa là ngời Bà chia sẻ cùng với
những ngời trần tục, bà đợc coi là vị thần cảm thông và độ lợng nhất. Bà trở
thành một trong các vị thần của Đạo Mẫu và nhanh chóng đợc nâng lên vị trí
quan trọng nhất cai trị các vị thần và thế giới con ngời.
5/ Các vị nữ thần khác của tín ngỡng thờ Mẫu
Trong các đền thờ của Đạo Mẫu có nhiều vị thần đợc sắp xếp theo các
thứ bậc. Đầu tiên là:
Đây là vị thần tối cao và đợc đặt ở vị trí danh dự, nhng lại ít đợc thờ
cúng. Vị thần cao nhất của Đạo Mẫu là Thánh Mẫu Liễu Hạnh. Các vị khác
đợc đặt tại các ban thờ Tam phủ hoặc Tứ phủ. Các Ch Linh của ban Tứ Phủ
đợc phân chia nh dới đây:
Bảo Dân Hộ quốc Thánh Mẫu (Mẫu Âu Cơ (Thiên Phủ và Nhạc Phủ).
- Mẫu Đệ Nhất (Thiên Phủ). Danh hiệu: Mẫu liễu Hạnh.
- Mẫu Đệ Nhất (Nhạc Phủ). Danh hiệu: Mẫu Thợng Ngàn.
- Mẫu Đệ Tam (Thóai Phủ). Danh hiệu: Mẫu Thoái.
- Mẫu Đệ Tứ (Địa Phủ). Danh hiệu: Lê Mại Đại Vơng
- Đệ Nhất Vơng Cô - Con gái thứ nhất của Hng Đạo Vơng.
- Đệ Nhị Vơng Cô - Con gái thứ hai của Hng Đạo Vơng.
Ngũ vị Thánh Bà: Là năm vị Chúa Bà chuyên về đáp giải bói bốc.
Danh hiệu của ngũ vị này là Chúa Bói trong Nhạc Phủ (trên thợng ngàn).
Có từ Chúa Bà Đệ Nhất đến Chúa Bà đệ Ngũ.
Ngũ Vị Tôn Quan:
Tứ Phủ Chầu Bà: Chầu Đệ nhất (Thiên Phủ0.
- Chầu Đệ Nhị (Nhạc phụ), Danh hiệu : Ngôi Kiều Công Chúa.
- Chầu Đệ Tam (Thoái Phủ) Danh hiệu: Thủy Điện Công Chúa
- Chầu Thác Bờ (Thoái Phủ và Nhạc Phủ) Cô ngời hầu là giá thứ ba,
tức là Chầu Đệ Tam, Bà chúa Thác Bờ.
12

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét