Thứ Ba, 25 tháng 2, 2014

Giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá Việt Nam sang thị trường Trung Quốc.

Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel (: 0918.775.368
của hàng công nghiệp, dịch vụ , hàng chế biến, giảm tỷ trọng hàng xuất
khẩu thô sơ chế biến, nguyên liệu, khoáng sản. Hàng nguyên liệu thô đến
nay chỉ chiếm khoảng 60% tổng kim ngạch xuất khẩu. Hàng chế biến và
chế tạo năm 1997 chiếm 40%so với tổng kim ngạch xuất khẩu, năm 2000
tỷ lệ này là 56% và năm 2005 là 68%. Cơ cấu nhóm hàng nông lâm thuỷ
sản năm 1997 chiếm 41% năm 2004 còn 17,17%, năm 2005 là 21,1 %,
nhóm hàng công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp năm 1997 64,74%, năm
2004 là 73,77%, năm 2005 là 63,2%.
Thị trường xuất khẩu cũng được mở rộng, ổn định và đã có những
chuyển dịch theo hướng đa dạng và định hình rõ thị trường trọng điểm.
THỊ TRƯỜNG XUẤT KHẨU HÀNG HÓA CỦA VIỆT NAM
chỉ tiêu 2003 2004 2005
Tổng KNXK(tr. USD) 20.176 26.503 32.200
1.Châu Á(tr. USD) 9.644 13.100 16.383
tỷ trọng(%) 47,8 49,4 50,9
-ASEAN(tr. USD) 2.958 3.874 5.450
tỷ trọng (%) 14,7 14,6 16,9
- Nhật Bản(tr. USD) 2.909 3.500
tỷ trọng (%) 14,4 13,5
- Trung Quốc(tr. USD) 1.747 2.735
tỷ trọng(%) 8,7 10,3
2. Châu Âu(tr. USD) 4.398 5.400 5.872
tỷ trọng (%) 21,8 20,4 18,2
- Các nước EU(tr. USD) 3.852 4.970 5.450
tỷ trọng(%) 19,1 18,8 16,9
3. Châu Mỹ (tr. USD) 4.580 5.731 6.910
tỷ trọng(%) 22,7 21,6 21,5
- Hoa Kỳ(tr. USD) 3.938 4.992 6.553
Tỷ trọng(%) 19,5 18,8 20,4
Nguồn báo cáo của Bộ Thương mại
3.2. Cơ cấu sản phẩm xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc.
Trong đó thị trường Trung Quốc là một thị trường rộng lớn nhưng có
sức cạnh tranh lớn, mà cạnh tranh trên thị trường Trung Quốc chủ yếu là
cạnh tranh về giá cả.Tuy nhiên ở một số khu vực có thu nhập cao thì chủ
5
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel (: 0918.775.368
yếu lại cạnh tranh về dịch vụ, chất lượng còn cạnh tranh về giá đã
giảm.Chẳng hạn như hang giày dép Biti’s xuất khẩu sang thị trường Trung
Quốc giá cao nhưng vẫn bán được . Trên cơ sở lợi thế cạnh tranh của mình
Việt Nam có thể đẩy mạnh xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc các
chủng loại sản phẩm có lợi thế cạnh tranh như: sản phẩm cao su chế biến
dạng thành phẩm cuối cùng( săm lốp ô tô, xe máy, cao su y tế, đồ nhựa dân
dụng), rau quả và hoa, thực phẩm chế biến , hải sản, khoáng sản…Hơn 100
nhóm hàng và mặt hàng khác nhau của Việt Nam xuất khẩu sang thị trường
Trung Quốc
Các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường Trung Quốc .
- Nhóm nguyên liệu: than đá, dầu thô, quặng các loại, các loại dầu
thực vật, cao su tự nhiên.
- Nhóm nông sản: gạo , chè, rau , sắn lát, hạt điều, lạc nhân , các loại
hoa quả nhiệt đới như chuối, soài , thanh long, chôm chôm, vải, nhãn…
- Thuỷ sản(tươi sống): tôm, cá, baba, mực.
- Hàng tiêu dùng: hàng thủ công mỹ nghệ, giày dép, đồ gia dụng cao
cấp.
- Hàng công nghiệp: linh kiện vi tính.
- Hàng công nghệ phẩm: xà phòng, hàng dệt may, giày dép, điên tử.
Dầu thô vẫn là mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu lớn nhất, chiếm
55% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hoácủaViệt Nam sang Trung Quốc.
Theo đánh giá của các chuyên gia, với tốc độ tăng trưởng mạnh mẽ, nhu
cầu nhập khẩu dầu thô của Trung Quốc khoảng 40- 50 triệu tấn/năm, cộng
với yếu tố giá cả của mặt hàng này trên thị trường thế giới trong thời gian
tới vẫn sẽ có lợi cho xuất khẩu.
Nhìn chung cơ cầu hàng xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường Trung
Quốc đã có những thay đổi đáng kể. Tỷ trọng hàng hóa đã qua chế biến và
hàng công nghiệp tiêu dùng tăng cao, nhiều mặt hàng của Việt Nam đã
khẳng định được thị phần và sức cạnh tranh của mình trên thị trường Trung
Quốc.
6
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel (: 0918.775.368
4. Đánh giá tình hình xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang thị trường
Trung Quốc.
4.1 Mặt tích cực.
Trên thực tế, với tổng kim ngạch buôn bán hai chiều liên tục vượt xa
dự kiến trong những năm gần đây, năm 2005 Trung Quốc đã lần thứ hai
vươt qua tất cả để trở thành đối tác thương mại lớn nhất của Việt Nam. Hơn
thế, trong bối cảnh người khổng lồ này sẽ còn tiếp tục giữ vai trò nguồn
động lực thúc đẩy thương mại toàn cầu phát triển trong những năm tới,
dường như có thể hy vọng đây sẽ là nguồn động lực thúc đẩy hoạt động
xuất khẩu của nước ta.
Thị trường Trung Quốc là thị trường tiềm năng không chỉ của Việt
Nam mà còn là của thế giới. Trung Quốc là thị trường có sức tiêu thụ rộng
lớn. Năm 2005, kim ngạch xuất khẩu đạt khoảng 334,6 triệu USD, số
tuyệt đối tăng 86% so với năm 2001. Điều đáng mừng đối với nước ta là
kim ngạch xuất khẩu sang thị trường này đã tăng hết sức ngoạn mục
56,51% trong năm 2004, đã nhảy vọt qua ngưỡng 2 tỷ USD rất xa và đạt
trên 2,7 tỷ USD, còn trong năm 2005 tuy chỉ tăng khiêm tốn ở mức 8,24% ,
nhưng cũng đã gần đạt ngưỡng 3 tỷ USD. Rõ rang với đà này, việc Trung
Quốc có thể thay thế Nhật Bản trở thành thị trường xuất khẩu lớn thứ 2 của
Việt Nam trong tương lai là điều có thể xảy ra. Vì thế Việt Nam cần có
chính sách đúng đắn, thoả đáng đối với thị trường này, khai thác triệt để
các yếu tố thuận lợi như : vừa to lớn , vừa dễ tính, vừa thuận tiện trong các
phương tiện như : đường bộ, đường thủy, hàng không, đường sắt.
Các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam trong những năm tiến hành
đổi mới đã có sự thay đổi đáng kể. Ngoài những mặt hàng truyền thống
như : than đá, dầu thô, một số sản phẩm nhiệt đới như : cà phê, hồ tiêu,
trong những năm gần đây hàng xuất khẩu của Việt Nam có thêm một số
loại mới tiêu biểu là lúa , gạo sau đó phải kể đến các loại hàng hóa thuỷ hải
sản, nông sản,một vài sản phẩm khai khoáng(quặng, kim loại). Trong vài
7
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel (: 0918.775.368
năm gần đây, sản lượng và giá trị xuất khẩu của mặt hàng này một tăng.
Năm 2003 đạt kim ngạch 2,3 tỷ USD và có triển vọng đạt kim ngạch ngày
càng cao hơn. Ngành thuỷ sản của Việt Nam đã được trang bị kỹ thuật chế
biến tiên tiến, có môi trường nuôi trồng ngày càng cải thiện theo tiêu
chuẩn.
Xuất khẩu hàng hóa sang thị trường Trung Quốc trong bối cảnh hai
nước có rất nhiều thuận lợi để đẩy mạnh xuất khẩu vì Việt Nam và Trung
Quốc, núi liền núi, sông liền sông, có đường biên giới chung trên đất liền,
là hai nước láng giềng, gần gũi, có nhiều điểm tương đồng về văn hoá, gần
nhau về lãnh thổ.Việt Nam có chung biên giới với Trung Quốc dài 1350
km trải dài từ Đông sang Tây qua 6 tỉnh vùng cao phía Bắc của Việt Nam
và 2 tỉnh của Trung Quốc là Quảng Tây và Vân Nam .Điều này thuận lợi
cho việc vận chuyển hàng hóa sang thị trường Trung Quốc.Kể từ khi chính
phủ 2 nước thực hiện chính sách mở cửa biên giới các tỉnh này được đô thị
hoá rất nhanh và từng bước trở thành nơi trao đổi hàng hóa và dịch vụ giữa
Việt Nam và Trung Quốc. Bên cạnh đó, nhiều ngành của Trung Quốc sử
dụng một khối lượng lớn than đá mà Việt Nam lại có những mỏ than tương
đối lớn ở Quảng Ninh sát biên giới với Trung Quốc nên việc vận chuyển
tương đối dễ dàng. Tuy nhiên các khu vực và các tỉnh của Trung Quốc phát
triển không đồng đều, nhu cầu tiêu dùng mang tính đa dạng cao.
Trung Quốc đã có nhiều chính sách thương mại nhằm thúc đẩy quan
hệ hợp tác về kinh tế đối với Việt Nam. Trung Quốc đã chuyển từ chính
sách mậu biên tiểu ngạch sang chính ngạch đối với Việt Nam . Hiện nay
chỉ còn Vân Nam được hưởng chính sách tiểu ngạch Phát triển mậu dịch
trên thị trường khu vực biên giới được coi là bước đi có tính chất mở
đường cho chiến lược mở cửa ven biên giới đất liền. Do sự khác biệt về
chính sách phát triển kinh tế- xã hội giữa Việt Nam và Trung Quốc nên
hoạt động hàng hoá trên thị trường khu vực vừa có tính đa dạng, vừa mang
tính đặc thù. Chính sự đa dạng luôn đi cùng với tính đặc thù nêu trên nên
8
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel (: 0918.775.368
hoạt động thương mại Việt – Trung cũng tồn tại và phát triển dưới các hình
thức trao đổi khá phong phú. Đây là cơ sở để phát triển theo hướng vừa
hợp tác, vừa bổ xung và hỗ trợ cho nhau để cùng phát triển.
Việt Nam và Trung Quốc hiện nay đều trở thành thành viên của
WTO nên phải tuân thủ những quy định của tổ chức, đồng thời Trung Quốc
cũng sẽ giành cho Việt Nam những chính sách ưu đăi cho một thành viên
mới của một gia đình lớn. Trở thành một thành viên của tổ chức lớn nhất
hành tinh là một thuận lợi rất lớn cho Việt Nam. Lộ trình cắt giảm thuế cho
các hàng hoá sẽ được thực hiện và Việt Nam sẽ có nhiều thuận lợi hơn
trong việc xuất khẩu hàng hóa ra thị trường nước ngoài.
Việc ký kết hiệp định thương mại hàng hóa và hiệp định cơ chế giải
quyết tranh chấp đã tạo tiền đề cho quá trình hợp tác toàn diện giữa Trung
Quốc và ASEAN. Hai bên nhất trí về chương trình Thu hoạch sớm ngày 1-
1-2006 mỗi bên đã cung cấp danh mục 500 mặt hàng được giảm thuế từ 0-
5% .Tạo điệu kiện thuận lợi lớn cho các mặt hàng của Việt Nam có thể
cạnh tranh được với hàng hoá của các nước khác trên thị trường Trung
Quốc. Sự kiện ảnh hưởng mạnh và trực tiếp hơn đến xuất khẩu hàng hóa
vào Trung Quốc, ngày 4-11-2002 Hiệp định khung về khu vực thương mại
tự do ASEAN- Trung Quốc(AC FTA) được ký kết, mở đường cho xây
dựng khu vực mậu dịch tự do AC FTA. Với hai điểm quan trọng trong
hiêp định khung là:
- T ừ tháng 1 năm 2004, giữa Trung Quốc và các nước ASEAN đã
bắt đầu thực hiện chương trình “thu hoạch sớm” EHP, giảm thuế nhập khẩu
đối với sản phẩm nông nghiệp, vi

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét