nên các lễ hội dân gian dân gian ở Việt nam được diễn ra theo thời tiết.
Thường chúng được mở tập trung vào hai mùa quan trọng nhất của một năm
sản xuất nông nghiệp là đầu mùa sản xuất (gieo, cấy) và cuối mùa sản xuất
(mùa thu hoạch, gặt hái).
Cũng vì thực chất là các lễ hội nông nghiệp mà các lễ hội dân gian ở
Việt nam không tái hiện cuộc sống nào khác sống nông nghiệp của chính họ.
Chúng (các lễ hội dân gian) đã phản ánh những tâm tư, tình cảm và nguyện
vọng của những người nông dân trồng lúa nước Việt nam. Có thể nói, hầu
như mọi mong ước tình cảm được phản ánh ở các lễ hội dân gian đều xoay
quanh hai chủ đề chính là cầu mưa, cầu nắng để cây lúa có đủ điều kiện phát
triển, nảy hạt, đâm bông. Các lễ hội cầu nước thường được tổ chức vào đầu
mùa sản xuất (cũng đồng thời là đầu năm mới); bởi phải có nước thì mới làm
được ruộng nước cày cấy và hạt lúa mới có thể nảy mầm được. Các lễ hội cầu
nắng thường được tổ chức vào giữa và cuối mùa sản xuất: bởi, khi đã đủ
nước, cây lúa cần có nắng, có ánh sáng để phát triển, có sức nóng để làm chín
những hạt lúa vàng. Và khi lúa đã chín, sau khi vui mừng thu hoạch lúa,
người nông dân Việt nam thường tổ chức các lễ hội để gửi gắm vào trong đó
lòng biết ơn, sự vui mừng trước những kết quả đã đạt được. Thực chất của
việc cầu mưa nắng thuận hòa ở mỗi lễ hội dân gian đều xuất phát từ mong
ước đạt được một kết quả sản xuất tốt đẹp (một vụ lúa bội thu). Mỗi lễ hội là
mỗi nguyện vọng, mỗi khắc khoải của người nông dân trồng lúa đối với từng
giai đoạn phát triển của cây lúa. Cho nên mới nói, các lễ hội dân gian ở Việt
nam được hình thành từ nền nông nghiệp lúa nước để phục vụ chính cuộc
sống sản xuất, sinh hoạt của những người nông dân trồng lúa nước.
Cuộc sống nông nghiệp được phản ánh rất đậm nét trong các lễ hội dân
gian ở Việt nam. Tuy nhiên, đây không phải là sự sao chép lại hiện thực, mà
đó là sự phản ánh hiện thực Việt nam qua cách nhìn của những người nông
dân trồng lúa. Nó không phải là tất cả những gì có sẵn trong tự nhiên, trong
nó chứa đựng những suy nghĩ và mong ước ấy lại xuất phát từ hoàn cảnh tự
nhiên, điều kiện địa lý, môi trường, xã hội của họ. Vì cây lúa là đối tượng
chính của sự sản xuất nông nghiệp Việt nam, nên nó (cây lúa) trở thành trung
tâm của sự phản ánh trong các lễ hội dân gian của vùng (cũng như trong mọi
hình thái văn hóa dân gian khác của vùng). Cây lúa được coi là biểu trưng cho
sự no đủ, hạnh phúc, biểu trưng cho tất cả những đức tính tốt đẹp của con
người. Mọi sự vật, hiện tượng đều được nhận thức trên cơ sở của quy luật
phát triển của cây lúa. Trong suy nghĩ của những người dân Việt nam, người
mẹ, người phụ nữ chính là những người đã tạo ra những giống lúa, sáng tạo ra
nghề trồng lúa (vì nghề trồng lúa được ra đời từ hái lượm, mà hái lượm lại là
- 5 -
công việc của người phụ nữ); Cho nên, ở các lễ hội dân gian của vùng, các tín
ngưỡng về cây lúa như là tín ngưỡng bản địa của các dân tộc trên đất nước
Việt nam, và sự phản ánh tín ngưỡng ấy qua biểu tượng người phụ nữ là một
đặc thù của các lễ hội dân gian ở Việt nam.
Các lễ hội dân gian ở Việt nam đều được tạo thành bởi một chuỗi các
cảnh diễn liên tiếp, theo một kịch bản quy định. Những cảnh diễn, cũng như
những quy định của kịch bản, lại xuất phát từ chính cuộc sống sinh hoạt và
lao động của những người nông dân trồng lúa, nên chúng có nhiều điểm
chung. Mỗi cảnh diễn được tạo thành bởi sự tập trung và tập hợp của nhiều
loại hình, loại chủng văn hóa, để diễn tả một hoạt động, một sinh hoạt vật chất
nào đó của người nông dân. Đương nhiên, sự diễn tả ấy là nhằm vào một mục
đích nhất định: nói lên một nguyện vọng, một mong ước của cộng đồng; nên
sự tập hợp lộn xộn, mà chúng có những quy tắc, quy định nhất định (nếu
không, cảnh diễn sẽ không có ý nghĩa, không biểu phát được nguyện vọng mà
những người nông dân muốn gửi gắm). Mặt khác, mỗi cảnh diễn lại nhằm
phục vụ cho việc làm rõ mục đích chung của lễ hội, nên chúng cũng phải tuân
thủ theo những quy tắc và quy định của lễ hội (để đạt được mục đích của lễ
hội). Chính những quy tắc và quy định này đã làm cho các hoạt động lễ hội
được "cấu tạo theo cơ chế mô hình" (nghĩa là chúng bao gồm những yếu tố có
tính chất "bộ xương", còn phần "thịt", tức các chi tiết thì dành cho các cá
nhân, các cộng đồng sáng tạo bồi đắp khi thực hiện hoạt động). Điều đáng
chú ý ở đây là những quy tắc, quy định (tức những yếu tố chung) được phát
sinh từ những người nông dân (bởi trong cộng đồng các dân tộc Việt nam,
người nông dân bao giờ cũng chiếm đa số); do đó, mô hình của các lễ hội dân
gian ở Việt nam thường là giống nhau. Với cơ chế mô hình, lễ hội dân gian
vừa đảm bảo tính thống nhất và truyền thống của cộng đồng, vừa có chỗ để
các cá nhân sáng tạo. Điều này khiến các lễ hội trong vùng không cái nào
giống cái nào nhưng vẫn có nét chung.
Cũng phải nói thêm rằng, chính vì được sản sinh và quy tụ để làm rõ
mục đích chung của lễ hội, mà các loại hình văn hóa tập trung và tập hợp
trong cảnh diễn, cũng như chuỗi cảnh diễn trong lễ hội luôn luôn được đặt vào
một hệ thống, trong đó, các loại hình văn hóa gắn bố hữu cơ với nhau (cũng
như cảnh diễn này gắn bó với cảnh diễn kia) đến mức: nếu tách một loại hình
văn hóa nào đó ra khỏi cảnh diễn, hoặc một cảnh diễn ra khỏi lễ hội thì chúng
không còn ý nghĩa như nó vốn có trong cảnh diễn và trong lễ hội nữa. (Đương
nhiên, mục đích của lễ hội cũng không đạt được một cách trọn vẹn nếu thiếu
đi một hay vài loại hình văn hóa hoặc một vài cảnh diễn). Ở đây, lễ hội đã bộc
lộ rõ nét một đặc điểm đặc thù trong phương thức nhận thức và phản ánh của
- 6 -
văn hóa dân gian, đó là: "phương thức tổng thể nguyên hợp" (tức nhận thức
sự vật với tư cách đó là một tổng thể). Vậy mới nói, lễ hội là một loại hình
văn hóa dân gian tiêu biểu.
Khi nói lễ hội dân gian trong vùng thực chất là các lễ hội nông nghiệp
cũng là muốn nói chúng - các lễ hội dân gian - là sản phẩm văn hóa của
những người nông dân (người nông dân vừa là chủ thể sáng tạo, vừa là người
tiêu dùng). Các hoạt động lễ hội nhằm đáp ứng nhu cầu không phải cho một
cá nhân người nông dân, mà cho cả cộng đồng người nông dân. Nó là sáng
tạo của cả cộng đồng người nông dân. Vì thế mọi tri thức, tư tưởng, tình
cảm cũng như những hành vi, quy ước, ước lệ trong lễ hội đều được biểu
tượng hóa bằng những hình ảnh, những dấu hiệu quen thuộc của cộng đồng.
Mọi thành viên trong cộng đồng đều có thể cảm nhận được chúng. (Không chỉ
có thế, chúng còn được mọi người tiếp nhận một cách tự nguyện bởi chúng
mang vác và diễn đạt những mong ước của chính họ). Ở thời kỳ tiền nông
nghiệp, khi cuộc sống còn phụ thuộc nhiều vào môi trường tự nhiên thì các
biểu tượng của các lễ hội trong vùng có nhiều nét giống nhau cả về vật dùng
làm biểu tượng lẫn giá trị mà biểu tượng ấy mang vác, bởi chúng đều được ra
đời trên cơ sở một hay nhiều đặc điểm về những điều kiện tự nhiên độc đáo
của môi trường sinh tồn Việt nam (nóng, ẩm, mưa nhiều, địa hình nhỏ hẹp );
và được ra đời từ nhu cầu sở thuộc xã hội và tính cố kết cộng đồng.
Cũng vì nhằm đáp ứng nhu cầu cho cả cộng đồng người nông dân mà lễ
hội được lưu truyền chủ yếu qua trí nhớ chứ không phải qua chữ viết (đa số
người nông dân xưa không biết chữ), nên quá trình sản xuất (sáng tạo) ra lễ
hội cũng đồng thời là quá trình nó được phân phối đến từng người và tiếp
nhận (tiêu thụ) nó. Lễ hội được ra đời chính lúc kết thúc các hoạt động lễ hội.
Tóm lại, do được cấu thành bởi sự tham gia của nhiều chủng loại văn
hóa dân gian khác nhau mà lễ hội mang trong nó mọi đặc điểm đặc thù của
văn hóa dân gian. Vì thế, muốn tìm hiểu được văn hóa dân gian Việt nam,
chúng ta không thể không tìm hiểu các lễ hội dân gian của Việt nam, và để
phát triển loại hình du lịch văn hoá ở Việt nam không thể bỏ qua được một
nguồn tài nguyên hết sức quan trọng đó là các lễ hội dân gian.
- 7 -
- 8 -
PHẦN II
LỄ HỘI DÂN GIAN VỚI PHÁT TRIỂN DU LỊCH VĂN HOÁ
Ở VIỆT NAM
I. NHỮNG NÉT KHÁI QUÁT VỀ DU LỊCH VĂN HOÁ.
Có thể hiểu du lịch văn hoá là một loại du lịch mà mục đích chính là
nâng cao hiểu biết cho cá nhân đáp ứng sự ham hiểu biết qua các chuyến du
lịch đến những vùng đất mới tìm hiểu và nghiên cứu lịch sử, kiến trúc, kinh
tế, chế độ xã hội, cuộc sống và phong tục tập quán của địa phương đất nước
đến du lịch hoặc là kết hợp những mục đích khác nữa.
Xu thế quốc tế hoá trong sinh hoạt văn hoá giữa cộng đồng và các dân
tộc trên thế giới được mở rộng, dẫn tới việc giao lưu văn hoá, tìm kiếm những
kiến thức về nền văn hoá nhân loại, về những miền đất lạ đã trở thành một
nhu cầu cho nhiều tầng lớp dân cư trong xã hội. Du lịch không còn hoàn toàn
là nghỉ ngơi giải trí đơn thuần (khôi phục và tái sản xuất sức khoẻ khả năng
lao động, ) mà còn là hình thức nghỉ ngơi tích cực có tác dụng bổ sung tri
thức, làm phong phú đời sống tinh thần của con người. Đó chính là nội hàm
của khái niệm du lịch văn hoá.
Du lịch văn hoá vừa là phương tiện, vừa là mục đích của kinh doanh du
lịch. Du lịch văn hoá nhằm chuyển hoá các giá trị văn hoá, các giá trị vật chất
cũng như tinh thần cho hoạt động du lịch. Du lịch văn hoá là phương thức hấp
dẫn vì nó giải quyết những nhu cầu về cảm thụ cảnh quan của quốc gia và du
lịch văn hoá thường để dành cho du khách có trình độ cao trong xã hội.
Du lịch văn hoá được xem là tổng thể của du lịch - xem đó là một hiện
tượng văn hoá những cố gắng thu hút khách ở các điểm du lịch phải mang
tính văn hoá. Những động cơ thu hút đến các điểm du lịch là để nghỉ ngơi và
giải trí.
Tuỳ theo các tiêu thức khác nhau mà người ta có thể phân chia du lịch
văn hoá ra nhiều loại:
+ Du lịch tìm hiểu bản sắc văn hoá: Khách đi tìm hiểu các nền văn hoá là
chủ yếu mục đích chuyến đi mang tính chất khảo cứu, nghiên cứu. Đối tượng
- 9 -
khách chủ yếu là các nhà nghiên cứu, học sinh, sinh viên - đó là các chương
trình du lịch dã ngoại đến các làng dân tộc ít người thuộc các tỉnh Hoà Bình,
Sơn La, Lai Châu, để khách tìm hiểu phong tục tập quán, lối sống văn hoá
của các dân tộc đó. Khách sẽ đi bộ khi tham quan các bản làng và thường
nghỉ qua đêm tại các bản làng đó.
+ Du lịch tham quan văn hoá: Đây là loại hình du lịch phổ biến nhất - du
khách thường kết hợp giữa tham quan với nghiên cứu tim fhiểu văn hoá trong
một chuyến đi. Đối tượng tham gia vào loại hình du lịch này rất phong phú,
bên cạnh những khách vừa kết hợp đi để tham quan, vừa để nghiên cứu còn
có những khách chỉ để chiêm ngưỡng để biết, để thoả mãn sự tò mò hoặc có
thể theo trào lưu, Do vậy, trong một chuyến du lịch, du khách thường đi đến
nhiều điểm du lịch, trong đó vừa có những điểm du lịch văn hoá, vừa có
những điểm du lịch núi, du lịch biển, du lịch dã ngoại, săn bắn, Đối tượng
khách là những người ưa phiêu lưu mạo hiểm, thích tìm cảm giác mới và chủ
yếu là những người trẻ tuổi. Ví dụ như các chương trình leo núi (ở nước ta đã
tổ chức cho khách du lịch leo núi Phanxipăng), các chương trình du lịch dã
ngoại, các chương trình du lịch săn bắn.
+ Du lịch kết hợp giữa tham quan văn hoá với các mục đích khác mục
đích chính của khách là trong chuyến đi nhằm thực hiện công tác hoặc nghề
nghiệp nào đó và có kết hợp với tham quan văn hoá. Đối tượng của loại hình
này là những người đi tham dự hội nghị, hội thảo, kỷ niệm những ngày lễ lớn,
các cuộc triển lãm. Loại khách này đòi hỏi trình độ phục vụ hiện đại, phong
phú, có chất lượng cao, qui trình phục vụ đồng bộ, chính xác, họ có khả năng
thanh toán cao nhưng nói chung thời gian dành cho du lịch của họ rất ít. Thể
loại du lịch cụ thể của loại hình du lịch này là du lịch công cụ.
Tuy nhiên, sự phân loại du lịch văn hoá thành các loại hình trên chỉ là
tương đối. Vì trong một chương trình du lịch thường được kết hợp nhiều hoạt
động khác nhau như: Kết hợp đi du lịch dã ngoại với du lịch theo chuyên đề
văn hoá, hoặc du lịch săn bắn, trong một chuyến hành trình nhằm tránh gây
cho khách cảm giác nhàm chán.
Du lịch văn hoá là loại hình du lịch tiềm năng vì nó ít chịu sự chi phối
của yếu tố thời vụ du lịch (thời tiết, khí hậu), nhưng nó phụ thuộc vào đặc
điểm nhân khẩu học như: giới tính, độ tuổi, trình độ văn hoá, nghề nghiệp, tôn
giáo, của du khách.
+ Yếu tố thời vụ du lịch: so với các loại hình du lịch khác, du lịch văn
hoá mang tính đại chúng. Tuy có chịu ảnh hưởng tính thời vụ nhưng không
phụ thuộc hoàn toàn, ít chịu ảnh hưởng của yếu tố thời tiết khí hậu. (Những
- 10 -
đặc điểm này thể hiện rất rõ ở loại hình du lịch lễ hội) đồng thời mức độ
chênh lệch cung cầu của du lịch văn hoá thường không lớn).
+ Yếu tố giới tính: Có tác động đến động cơ đi du lịch và động cơ đi du
lịch văn hoá là một trong những nguyên nhân chủ yếu của nam giới vì đối với
họ ít chịu sự ràng buộc của gia đình, thường có trình độ học vấn cao, có địa vị
xã hội,
+ Yếu tố độ tuổi: Tham gia vào các chuyến du lịch văn hoá chủ yếu vẫn
là những khách du lịch cao tuổi và thanh niên. Đối với khách cao tuổi họ
thường có nhiều thời gian rỗi, thường có kinh nghiệm trong việc đi du lịch,
họ thích tìm hiểu về âm nhạc, nghệ thuật quần chúng, các món ăn đậm đà tính
dân tộc, và họ quan tâm nhiều đến chất lượng phục vụ. Chủ yếu họ mua các
chương trình tham quan du lịch văn hoá. Ngược lại, đối với khách du lịch
thanh niên đây là nhóm có số lượng đông đúc với các đặc trưng của thanh
niên như: ưa khám phá, thích tìm tòi, muốn thử sức mình, thích đi xa, thích sự
tự do, thích thay đổi điểm du lịch và thường đi thành nhóm lẻ, do đó họ có
xu hướng đòi hỏi tính mới mẻ, đa dạng trong dịch vụ du lịch, họ có khả năng
thanh toán thấp, ít có kinh nghiệm trong đi du lịch, họ thường quan tâm đến
giá cả nhưng ít quan tâm đến yêu cầu về chất lượng dịch vụ. Khách du lịch
thanh nhiên thường tham gia vào các chuyến du lịch dã ngoại, săn bắn mạo
hiểm, tham quan văn hoá, Đối với những khách trung niên thường là những
người có địa vị xã hội có khả năng thanh toán cao, có sự tự chủ lớn trong khi
đi du lịch. Họ quan tâm nhiều đến chất lượng phục vụ, họ thường kết hợp
giữa đi công tác với đi du lịch.
+ Yếu tố trình độ học vấn: Những người có trình độ học vấn cao là loại
khách được các nhà kinh doanh du lịch quan tâm nhiều vì những nhà học vấn
cao thường thường là những người có địa vị xã hội cao, thu nhập cao, trình độ
văn hoá cao nên có nhu cầu mở rộng sự hiểu biết tìm hiểu thế giới xung
quanh cao hay có thể nói họ có động cơ văn hoá cao trong nhu cầu đi du lịch.
Khách du lịch văn hoá có thể được coi là khách du lịch thuần tuý vì
khách có thể chỉ đi vì động cơ văn hoá. Tuy nhiên số lượng khách du lịch văn
hoá thuần tuý trong thực tế thường rất ít mà khách du lịch thường kết hợp
giữa loại hình du lịch văn hoá với loại hình du lịch khác trong một chuyến
hành trình.
II. VAI TRÒ CỦA CÁC LỄ HỘI DÂN GIAN TRONG VIỆC PHÁT TRIỂN
DU LỊCH VĂN HOÁ Ở VIỆT NAM.
Để phát triển du lịch không một quốc gia nào trên tế giới lại không coi
trọng sự phát triển của du lịch văn hoá, bởi du lịch văn hoá là một loại hình du
- 11 -
lịch có nhiều ưu điểm : ít có tính mùa vụ, có thể phát triển quanh năm, tạo
nguồn thu ổn định, với mức tăng trưởng ngày càng lớn, nó giúp cho con
người hiểu biết sâu sắc về thế giới xung quanh…
Việt Nam là một đất nước có tiềm năng phát triển du lịch văn hoá rất
lớn. Với hơn bốn ngàn năm lịch sử dựng nước và giữ nước của cha ông đã để
lại cho chúng ta hàng ngàn các di sản văn hoá và di tích lịch sử văn hoá.
Trong số đó các lễ hội dân gian là một nguồn tài nguyên vô cùng quan trọng
cho phát triển du lịch văn hoá ở Việt Nam.
Lễ hội là một phong tục lớn một nét văn hoá không thể thiếu trong đời
sống của người Việt Nam
Lễ hội thường diễn ra ở các vùng quê nơi có cảnh quan thiên nhiên tươi
đẹp co những công trình kiến trúc mang dấu ấn của từng thời đại như : Đình,
Chùa, Đền Miếu. Lễ hội truyền thống ở Việt Nam thường được tổ chức vào
mùa xuân, mùa thu, khi mùa màng đã song xuôi nông dân có thời gian nghỉ
ngơi vui chơi thoải mái. Cấu trúc của một lễ hội thường gồm có hai phần là
phần lễ và phần hội.
Phần lễ thường được tổ chức ở đình Chùa nhằm thể hiện lòng thành kính
của con người và để bày tỏ nguyện vọng của con người trước những khó khăn
của cuộc sống với phật thánh.
Trong lễ không thể thiếu phần hội vì hội là để vui chơi thoải mái, không
bị ràng buộc bởi những lê nghi tôn giáo tuổi tác. Sau những tháng ngày làm
ăn lam lũ dân làng chờ đón ngày hội như chờ đón một tin vui. Họ đến với hội
hoàn toàn tự nguyện, ngoài vui chơi giải trí, gặp gỡ bạn bè mọi người đi dự
hội đều cảm thấy như mình được thêm một cái gì đó có thể là điều may. Thứ
quyền lợi vô hình ấy làm cho những người đi hội thêm phần phấn chấn. Chính
vì vậy lễ hội bao giờ cũng có đông người đến dự. Tuy nhiên quy mô của từng
hội có khác nhau. Có hội chỉ diễn ra ở một vài làng nhưng cũng có hội mang
tính toàn quốc như : hội Đền Hùng, hội Chùa Hương, hội Hoa Lư trong quá
trình diễn ra lễ hội đã làm tái hiện lại phong tục tập quán, tín ngưỡng văn hoá
và những sự kiện lịch sử quan trọng. Lễ hội chính là một pho sử khổng lỗ.
Bên cạnh những lễ hội thuần tuý mang ý nghĩa về lễ ghi nông nghiệp
như lễ hội Chùa Dâu cầu cho mưa thuận gió hoà, mùa màng tốt tươi còn có
những lễ hội mang ý nghĩa lịch sử như: Hội Đền Hùng, hội Gióng.
Ngoài những lễ hội trên còn có những lễ hội mang ý nghĩa văn nghệ giải
trí như hội lim hát quan họ hội hát xoan Phú Thọ
- 12 -
Theo thống kê sơ bộ ở Việt Nam có hàng trăm lễ hội, lễ hội tập trung
nhiều nhất ở vùng đồng bằng Bắc Bộ nơi có nền văn minh lúa nước phát hiện
sớm. Như vậy theo cùng với các loại hình du lịch nghỉ Biển, nghỉ núi, dã
ngoại chữa bệnh thì loại hình du lịch lễ hội luôn có sức thu hút khách du
lịch trong nước và quốc tế. vì lễ hội không chỉ là sản phẩm văn hoá mà còn là
một tiềm năng du lịch hết sức hấp dẫn. Du lịch càng phát triển thì càng gắn bó
chặt chẽ với loại hình du lịch lễ hội.
Thông qua những chương trình du lịch lễ hội nhằm giới thiệu với du
khách một cách sinh động hơn về đất nước con người Việt Nam trong quá
khứ và hiện tại; giới thiệu những nét đặc trưng những giá trị văn hoá tín
ngưỡng được thể hiện trong lễ hội.
Đến với lễ hội du khách cũng được cộng hưởng niềm vui với cái vui của
lễ hội được hoà mình với phong cảnh thiên nhiên tươi đẹp được chiêm
ngưỡng những công trình kiến trúc cách đây hàng thế kỷ.
Du lịch lễ hội xuất hiện rất sớm ở Ai Cập có từ thời cổ thông qua các
cuộc hành hương đến thánh địa. ở Việt Nam đây là một sinh hoạt tổng hợp,
mang tính du lịch có từ ngàn đời nay du lịch lễ hội phát triển sẽ góp phần
quan trọng trong việc giữ gìn và bảo tồn bản sắc văn hoá dân tộc.
Một khi những yếu tố di sản văn hoá được khuyến khích trong du lịch sẽ
là cơ sở để phát triển du lịch bền vững và tạo điều kiện để thu hút khách du
lịch ngày càng đông.
Có thể nói giữ gìn bản sắc văn hoá là sự trường tồn của lễ hội và sẽ là
điều kiện quan trọng để phát triển du lịch bền vững.
III. MỘT SỐ LỄ HỘI TIÊU BIỂU Ở MIỀN BẮC VIỆT NAM.
1. Lễ hội Đền Hùng.
Khi nói đến các lễ hội có ý nghĩa và giá trị lớn phục vụ phát triển du lịch
ở nước ta, ai cũng nhắc trước tiên đến lễ hội Đền Hùng. Bởi lẽ, trong suy nghĩ
chung lễ hội Đền Hùng có tính linh thiêng đối với mỗi người dân Việt nam.
Nó nhắc chúng ta nhớ về cội nguồn, về tổ tiên chung của cả cộng đồng người
Việt.
Dù ai đi ngược về xuôi
Nhớ ngày giỗ tổ mồng mười, tháng ba.
Là người Việt nam dù là được ở quê hương hay phiêu bạt nơi đâu, nhưng
cứ mỗi độ xuân sang, ai cũng hướng lòng mình về một vùng đất Tổ – Vùng
đất trung du thơ mộng thuộc xã Hy Cương, huyện Phong Châu, Phú Thọ, nơi
- 13 -
cội nguồn của dân tộc, nơi hàng năm con chắu cả nước về dự Giỗ tổ Hùng
Vương.
Trước lúc vào hội, mời bạn hãy đến thăm những di tích lịch sử cổ kính
của một quần thể kiến trúc tuyệt vời trên ngọn núi nghĩa lĩnh này. ngọn núi từ
bao đời nay được con cháu từ khắp mọi miền nhắc đến với một niềm súc
động dào dạt, hướng về nơi chôn rau cắt rốn của mình.
Dưới những tán cây chò xanh cao vút, mát rượi, bước theo các bậc đá
sạch sẽ từ cổng chính đi lên,chẳng mấy chốc lên tới đền Hạ. theo truyền
thuyết, nơi đây Bà Âu Cơ sinh ra cái bọc trăm trứng, nở thành trăm người con
trai. Sau đó Lạc Long Quân dẫn 50 người về xuôi, Âu Cơ dẫn 49 người lên
ngược, dể lại người con trưởng làm vua, xưng là hv, đóng đô ở Phong Châu,
đặt tên nước là Văn Lang. Từ đó sinh sôi ra các dân tộc Việt nam.
Trước cửa Đền Hạ có một cây thiên tuế chính nơi đây Bác Hồ đã nói
chuyện với cán bộ chiến sĩ đại đoàn quân Tiên phong trước khi về tiếp quản
Thủ đô tháng 9/1954. Câu nói nổi tiếng ấy nay đã được khắc thành chữ vàng
để muôn đời con cháu mai sau nhớ mãi : “ các vua Hung đã có công dựng
nước, bác cháu ta phải cùng nhau giữ nước ”. sau khi rời đền Hạ du khách
tiếp tục lên đền Trung. Tương truyền các Vua Hùng thường đến đây cùng các
Lạc tướng bán việc nước. đây cũng là nơi Lang Liêu, vị hoàng tử nghèo đã
lấy những hạt gạo do chính mình cấy gặt ra làm nên những chiếc bánh chưng
bánh đầy đầy hương vị quê hương dâng lên vua cha nhân ngaỳ tết. Sự tích
bánh chưng bánh dầy, bài học về sự quý trọng công sức và của cải do bàn tay
lao động của con người làm ra, bắt đầu từ đó. Lên cao nữa là đền Thượng, nơi
hàng năm vua Hùng làm lễ tế trời đất, thờ thần lúa. Dứng trên đền Thượng,
phóng tầm mắt ra xa,bạn sẽ thấy nhiều hòn núi lớn nhỏ như bầy voi quỳ
hướng về ngọn Núi Mẹ oai nghiêm nhắc ta nhớ đến câu chuyện về 99 con voi
trung thành.
Bây giờ ta hãy trở về với ngày hội tháng ba.
Mồng mười tháng ba được coi là ngày hội lớn nhất, ngày giỗ Tổ, ngày tụ
hội của con Rồng chắu Tiên.
Cuộc tế lễ chính thức được tiến hành vào sáng mồng mười tháng ba, năm
nào cũng có đại diện cao cấp của nhà người về dự những nghi thức ấy diễn ra
rất long trọng tại đền Thượng với đầy đủ các lề luật của một cuộc lễ lớn. Lễ
vật tại Đền Hùng bao gồm lợn, bò, dê mỗi thứ một con để nguyên và xôi
trắng, xôi mầu, bánh chưng, bánh dầy.
- 14 -
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét