Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel : 0918.775.368
Hội nghị lần thứ 6 Ban chấp hành Trung ương Đảng Khoá IX họp
tháng 7/2002 đã đề ra nhiệm vụ cần " thúc đẩy việc ứng dụng tiến bộ khoa
học và công nghệ, đổi mới công nghệ trong các doanh nghiệp ”.Đổi mới
công nghệ đang trở thành vấn đề hết sức quan trọng trong quá trình phát
triển kinh tế nước nhà. Hiện đầu tư đổi mới công nghệ là một vấn đề hêt sức
nóng bỏng, mới mẻ ma các nhà kinh tế và doanh nghiệp đang hết sức quan
tâm. Trên tinh thần đó em đã chọn nghiên cứu đề tài "Hoàn thiện cơ chế,
chính sách nhằm thúc đẩy đầu tư đổi mới công nghệ tại Việt Nam giai
đoạn 2006-2010".
Mục tiêu nghiên cứu của đề tài là tập trung phân tích thực trạng đầu
tư đổi mới công nghệ ở nước ta và các cơ chế chính sách được ban hành và
triển khai thực hiện thời gian qua. Trên cơ sở đó, đề tài sẽ nêu bật những tồn
tại, nguyên nhân của tình hình, qua đó kiến nghị các cơ chế, chính sách và
giải pháp nhằm thúc đẩy các nhà đầu tư tiềm năng cả trong nước và nước
ngoài đầu tư đổi mới công nghệ ở nước ta trong thời gian 5 năm tới.
Kết cấu của đề tài gồm 3 chương:
Chương I: Khái quát về đầu tư đổi mới công nghệ
Chương II: Thực trạng cơ chế, chính sách đầu tư đổi mới công
nghệ ở Việt Nam
Chương III: Kiến nghị hoàn thiện cơ chế, chính sách thúc đẩy đầu
tư đổi mới công nghệ ơ Việt Nam giai đoạn 2006-2010
Em xin chân thành cảm ơn Th.S. Bùi Đức Tuân _ Khoa KH&PT
Trường ĐHKTQD và Th.s.Trần Toàn Thắng _ Viện NCQLKTW đã nhiệt
tình giúp đỡ em nghiên cứu hoàn thành đề án này. Mặc dù đã hết sức cố
gắng trong nghiên cứu, nhưng do trình độ kinh nghiệm còn hạn chế và
khuôn khổ thời gian có hạn chưa nghiên cứu sâu sắc vấn đề nên bài viết
không tránh khỏi những hạn chế và thiếu sót. Vì vậy, đề tài nghiên cứu rất
cần những ý kiến đóng góp, sửa chữa để được hoàn thiện hơn.
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel : 0918.775.368
CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT VỀ ĐẦU TƯ ĐỔI MỚI
CÔNG NGHỆ
I. KHÁI NIỆM VÀ PHÂN LOẠI ĐẦU TƯ
1. Khái niệm đầu tư
Xuất phát từ phạm vi phát huy tác dụng của các kết quả đầu tư chúng
ta có thể có những cách hiểu khác nhau về đầu tư (còn gọi là hoạt động đầu tư ).
Đầu tư theo nghĩa rộng, nói chung, là sự hy sinh các nguồn lực ở
hiện tại để tiến hành các hoạt động nào đó nhằm thu về cho người đầu tư
các kết quả nhất định trong tương lai lớn hơn các nguồn lực đã bỏ ra để
đạt được các kết quả đó. Nguồn lực đó có thể là tiền, là tài nguyên thiên
nhiên, là sức lao động và trí tuệ
1
.
Những kết quả đó có thể là sự tăng thêm các tài sản tài chính (tiền
vốn), tài sản vật chất (nhà máy, đường xá, các của cải vật chất khác ), tài
sản trí tuệ (trình độ văn hoá, chuyên môn, khoa học kỹ thuật ) và nguồn
nhân lực có đủ điều kiện để làm việc với năng suất lao động cao hơn trong
nền sản xuất xã hội.
Trong các kết quả đã đạt được trên đây những kết quả là tài sản vật
chất, tài sản trí tuệ và nguồn nhân lực tăng thêm có vai trò quan trọng trong
mọi lúc, mọi nơi, không chỉ đối với người bỏ vốn mà còn đối với cả nền
kinh tế. Những kết quả này không chỉ nhà đầu tư mà cả nền kinh tế được thụ
hưởng.
Theo nghĩa hẹp, đầu tư chỉ bao gồm những hoạt động sử dụng các
nguồn lực hiện tại nhằm đem lại cho nền kinh tế-xã hội những kết quả trong
tương lai lớn hơn các nguồn lực đã sử dụng để đạt được các kết quả đó.
Như vậy nếu xem xét trong phạm vi quốc gia thì chỉ có hoạt động sử
dụng các hoạt động của các tài sản và nguồn nhân lực sẵn có thuộc phạm trù
đầu tư phát triển.
1
. PGS.TS. Nguyễn Bạch Nguyệt (2004), giáo trình kinh tế đầu tư, NXB Thống Kê
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel : 0918.775.368
Từ đây ta có thể định nghĩa về đầu tư phát triển như sau: Đầu tư phát
triển là hoạt động sử dụng các nguồn lực tài chính, nguồn lực vật chất,
nguồn lực lao động và trí tuệ để xây dựng, sửa chữa nhà cửa và cấu trúc hạ
tầng, mua sắm trang thiết bị và lắp đặt chúng trên nền bệ, bồi dưỡng đào tạo
nguồn nhân lực, thực hiện chi phí thường xuyên gắn liền với sự hoạt động
của các tài sản này nhằm duy trì tiềm lực hoạt động của các cơ sở đang tồn
tại và tạo tiềm lực mới cho nền kinh tế xã hội, tạo việc làm và nâng cao đời
sống của mọi thành viên trong xã hội.
2. Phân loại các hoạt động đầu tư
Trong công tác quản lý và kế hoạch hoạt động đầu tư các nhà kinh tế
phân loại hoạt động đầu tư theo các tiêu thức khác nhau. Những tiêu thức
phân loại đầu tư thường được sử dụng là:
- Theo bản chất của đối tượng đầu tư, hoạt động đầu tư bao gồm đầu
tư cho các đối tượng vật chất (đầu tư tài sản vật chất hoặc tài sản thực như
nhà xưởng,máy móc, thiết bị ) cho các đối tượng tài chính như mua cổ
phiếu, trái phiếu và các chứng khoán khác ) và đầu tư cho các hoạt động
phi vật chất (đầu tư tài sản trí tuệ và nguồn nhân lực như đào tạo, nghiên
cứu khoa học, y tế ).
Trong các loại đầu tư trên đây, đầu tư đối tượng vật chất là điều kiện
tiên quyết, cơ bản làm tăng tiềm lực của nền kinh tế, đầu tư tài chính là điều
kiện quan trọng để thu hút mọi nguồn vốn từ mọi tầng lớp dân cư cho đầu tư
đối tượng vật chất, còn đầu tư tài sản trí tuệ và nguồn nhân lực là điều kiện
tất yếu để đảm bảo cho đầu tư các đối tượng vật chất tiến hành thuận lợi và
đạt hiệu quả kinh tế- xã hội cao.
- Theo lĩnh vực hoạt động trong xã hội của các kết quả đầu tư có thể
phân chia các hoạt động đầu tư thành đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh,
đầu tư phát triển khoa học kỹ thuật, đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng (kỹ thuật
và xã hội). Các hoạt động đầu tư này có quan hệ tương hỗ với nhau. Chẳng
hạn đầu tư phát triển khoa học kỹ thuật và cơ sỏ hạ tầng tạo điều kiện cho
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel : 0918.775.368
đầu tư phát triển kinh doanh đến lượt mình lại tạo tiềm lực cho đầu tư phát
triển khoa học kỹ thuật, cơ sở hạ tầng và các hoạt động đầu tư khác.
- Theo quan hệ quản lý của chủ đầu tư, hoạt động đầu tư có thể chia
thành đầu tư gián tiếp và đầu tư trực tiếp.
+ Đầu tư trực tiếp: trong đó người bỏ vốn trực tiếp tham gia quản ký
điều hành quá trình thực hiện và vận hành kết qủa đầu tư đầu tư trực tiếp lại
được phân cha thành 2 loại: Đầu tư dịch chuyển và đầu tư phát triển.
Đầu tư dịch chuyển là loại đầu tư trong đó người có tiền mua lại một
số cổ phần lớn để nắm quyền chi phối hoạt động của doanh nghiêp. Trong
trường hợp này, việc đầu tư không làm gia tăng tài sản của doanh nghiệp,
mà chỉ thay đổi quyền sử hữu các cổ phần của doanh ngiệp.
Đầu tư phát triển là loại bỏ vốn đầu tư để tạo nên những năng lực sản
xuất phục vụ mới (cả về lượng và chất). Đây là loại đầu tư để tái sản xuất
mở rộng, là biện pháp chủ yếu để cung cấp việc làm cho người lao động, là
tiền đề để thực hiện đầu tư tài chính và đầu tư chuyển dịch.
+ Đầu tư gián tiếp: Trong đó người bỏ vốn đang trực tiếp tham gia
điều hành quá trình thực hiện và phân hành các kết quả đầu tư. Đó là việc
các chính phủ thông qua các chương trình tài trợ không hoàn lại, có hoàn lại
với lãi suất thấp cho các chính phủ của các nước khác và để phát triển kinh
tế -xã hội; là việc các cá nhân, các tổ chức mua các chứng chỉ có giá như cổ
phiếu, trái phiếu để được hưởng tức lợi (gọi là đầu tư tài chính).
Chính sự điều tiết của bản thân thị trường và các chíng sách khuyến
khích đầu tư theo định hướng của nhà nước, từ đó tạo nên một cơ cấu hợp
lý, có nghĩa là người có vốn sẽ không chỉ đầu tư cho lĩnh vực thương mại
mà cả cho lĩnh vực sản xuất, không chỉ đầu tư tài chính, đầu tư chuyển dịch
mà cả đầu tư phát triển.
3. Vai trò của đầu tư với việc tăng cường khả năng khoa học và công
nghệ của đất nước.
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel : 0918.775.368
Công nghệ là trung tâm của công nghiệp hoá. Đầu tư là điều kiện tiên
quyết của sự phát triển và tăng cường khẳ năng công nghệ của nước ta hiện
nay. Theo đánh giá của các chuyên gia công nghệ, trình độ Việt Nam lạc
hậu nhiều thế hệ so với thế giới và khu vực. Theo VNIDO, nếu chia quá
trình phát triển công nghệ trên thế giới làm 7 giai đoạn thì Việt Nam hiện ở
vào giai đoạn 2. Viêt Nam đang là một trong 90 nước kém nhất về công
nghệ. Với trình độ công nghệ lạc hậu này, quá trình công nghiệp hoá, hiện
đại hoá ở Việt Nam sẽ gặp rất nhiều khó khăn nếu không đề ra được một
chiến lược đầu tư phát triển công nghệ nhanh và vững chắc.
Chúng ta đều biết rằng có hai con đường cơ bản để có công nghệ là tự
nghiên cứu và phát minh ra công nghệ và nhập công nghệ từ nước ngoài. Dù
là nghiên cứu hay nhập từ nước ngoài cần phải có tiền, cần phải có vốn đầu
tư mọi phương án đổi mới công nghệ không gắn với nguồn vốn đầu tư sẽ là
những phương án không khả thi.
II. CÔNG NGHỆ VÀ VAI TRÒ CỦA CÔNG NGHỆ TRONG PHÁT TRIỂN KINH TẾ.
1. Khái niệm và phân loại công nghệ
1.1. Khái niệm công nghệ và các yếu tố cấu thành công nghệ
Công nghệ là một yếu tố tạo ra quá trình sản xuất hàng hoá và cung
cấp dịch vụ. Nó liên kết các yếu tố khấc của quá trình sản xuất kinh doanh
theo một lô gíc về mặt kỹ thuật. Thiếu yếu tố này, không thể có bất kỳ quá
trình sản xuất- kinh doanh nào. Ngay trong các quá trình cung cấp dịch vụ
thuộc các lĩnh vực phi vật chất, thậm chí trong các hoat động công cộng,
người ta cũng nói tới công nghệ, công nghệ triển khai, cung cấp dịch vụ và
tiến hành các hoạt động.
Công nghệ được định nghĩa theo nhiều cách khác nhau, những cách
tiếp cận khác nhau. Theo nghĩa hẹp ban đầu, công nghệ chỉ được dùng trong
sản xuất và được hiểu là "phương pháp công nghệ", tức là những phương
pháp sản xuất sản phẩm, được mô tả qua những quy trình được hình thành
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel : 0918.775.368
dưới những hình thức bản vẽ, sơ đồ, bảng, biểu. Một khái niệm khác cũng
được dùng trong mối quan hệ với công nghệ là khái niệm kỹ thuật-bao gồm
toàn bộ các phương tiện kỹ thuật. Về sau, khái niệm công nghệ đã được sử
dụng trong cả lĩnh vực cung cấp hàng hoá, dịch vụ và gần đây trong cả quản
lý.
Cùng với sự phát triển của quá trình chuyển giao công nghệ, khái
niệm công nghệ đã được mở rộng: công nghệ là tập hợp tất cả các phương
pháp sản xuất, cung cấp dịch vụ cũng như những phương tiện kỹ thuật cần
thiết để thực hiện phương pháp đó. Công nghệ không chỉ bị giới hạn trong
quá trình sản xuất, mà bao gồm cả những hoạt động nằm ngoài quá trình sản
xuất trực tiếp( trong các quá trình chuẩn bị sản xuất và trong phân phối, lưu
thông hàng hoá ). Với định nghĩa này, cả hai khái niệm “công nghệ” và “kỹ
thuật” theo nghĩa hẹp đã được liên kết lại với nhau. Người ta xem phương
pháp và quy trình công nghệ là yếu tố "phần mềm" của công nghệ còn thiết
bị, máy móc và công cụ sản xuất là "phần cứng" của công nghệ.
Tiếp đó sau thập kỷ 90, khái niệm công nghệ được mở rộng hơn. Nó
được định nhĩa như tổng thể của các phương pháp, quy trình, máy móc, thiết
bị cần dùng để sản xuất sản phẩm và cung cấp dịch vụ, các hiểu biết, kỹ
năng, thông tin cũng như phương thức tổ chức mà con người cần áp dụng để
sử dụng những phương pháp, phương tiện đó. Theo định nghĩa này, công
nghệ được chia thành 4 yếu tố: phần cứng (các phương tiện kỹ thuật như
máy móc, thiết bị, công cụ sản xuất ); phần mềm (các phương pháp, quy
trình sản xuất và cung cấp sản phẩm-dịch vụ); phần tổ chức (kết cấu hệ
thống sản xuất và quản lý sản xuất, cơ chế vận hành của hệ thống đó); và
phần con người (kể cả các kỹ năng, kỹ xảo, kiến thức thông tin mà người lao
động và các cán bộ quản lý các cấp cần có để sử dụng được công nghệ).
Công nghệ là một khái niệm rộng, thay đổi cùng với sự phát triển của
khoa học công nghệ, điều kiện kinh doanh và yêu cầu của quản lý. Hiện nó
đã bao hàm một nội dung rất rộng và sau này có thể tiếp tục được mở rộng.
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel : 0918.775.368
Công nghệ, với thuật ngữ quốc tế "technology", được coi là phương
tiện, công cụ để biến đổi giới tự nhiên thành thế giới do con người tạo ra; là
tác nhân chủ chốt trong quá trình biến đổi các tài nguyên thiên nhiên thành
các hàng hoá, dịch vụ.
Theo từ điển bách Khoa Việt Nam phát hành 1999 đã tập hợp 5 khái
niệm được coi là tiêu biểu về công nghệ như sau:
1, Công nghệ là môn khoa học ứng dụng, nhằm vận dụng các quy luật
tự nhiên và nguyên lý khoa học, đáp ứng nhu cầu vật chất và tinh thần của
con người.
2, Công nghệ là phương tiện kỹ thuật, là sự thể hiện vật chất hoá các
tri thức ứng dụng khoa học.
3, Công nghệ là tập hợp các cách thức, các phương pháp dựa trên cơ
sở khoa học và được sử dụng vào sản xuất trong các ngành sản xuất khác
nhau để tạo ra các sản phẩm vật chất hay dịch vụ.
4, Công nghệ bao gồm nhiều yếu tố hợp thành như phương tiện, máy
móc, thiết bị, các quá trình vận hành, các phương pháp tổ chức, quản lý đảm
bảo cho quá trình sản xuất và dịch vụ xã hội.
5, Xét riêng về mặt kinh tế, trong quan hệ với sản xuất, công nghệ
được coi là phương tiện để thực hiện quá trình sản xuất, biến đổi các "đầu
vào" để các "đầu ra" cho các sản phẩm và dịch vụ mong muốn.
Trong đề tài này công nghệ được hiểu theo nghĩa là sản phẩm trí
tuệ, là tập hợp những bí quyết, phương pháp, kỹ năng, quy trình, được thể
hiện dưới hai dạng cụ thể là những tri thức hay sáng kiến, sáng tạo được
thể hiện trong một sản phẩm. Còn công nghệ về quy trình sản xuất là
những bí quyết gắn với quy trình sản xuất ra sản phẩm nói chung
2
.
1.2. Phân loại công nghệ
Việc phân loại công nghệ là rất cần thiết để có thể quản lý, phát triển,
hoàn thiện chúng. Trình độ phát triển kỹ thuật và công nghệ ngày càng cao,
2
. Nguồn: tổng quan công nghệ cao, Tổng luận khoa học công nghệ kinh tế, Bộ Khoa học công nghệ v à
môi trường, số 1-2003
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel : 0918.775.368
càng có nhiều công nghệ được đưa vào khai thác và sử dụng. Thì nhu cầu
phân loại công nghệ càng trở nên quan trọng, khó khăn và phức tạp. Việc
phân loại công nghệ có thể nhằm những mục tiêu rất khác nhau. Tuy nhiên
điều quan trọng hơn cả là cần phân loại công nghệ để có một cái nhìn bao
quát, tổng hợp về công nghệ đang tồn tại chưa được quan tâm nghiên cứu
đúng mức. Phần lớn các nhà nghiên cứu và quản lý công nghệ đều xem đây
như một trong những điểm yếu trong quản lý công nghệ.
Công nghệ có thể được phân loại theo những tiêu thức khác nhau, tuy
nhiên, dù theo tiêu thức nào thì mỗi cách phân loại cũng chỉ đề cập đến một
hoặc một số khía cạnh, phục vụ mục tiêu quản lý có tính chức năng riêng
biệt. Bởi vậy, khi nghiên cứu, quản lý, phát triển công nghệ và năng lực
công nghệ, cần chú ý tới cách phân chia toàn diện và phối hợp đúng với
nhau. Chúng ta phân loại công nghệ dựa theo các căn cứ sau:
- Căn cứ vào tính chất của công nghệ hoặc lĩnh vực khoa học công
nghệ dựa vào đó để thiết kế. Theo đó, công nghệ được chia thành các nhóm
ứng với các lĩnh vực khoa học tự nhiên hoặc khoa học xã hội làm nền tảng
cho nó.
Ví dụ, người ta phân biệt các công nghệ sinh học, công nghệ cơ khí,
công nghệ tin học, công nghệ hoá học Việc phân chia này có ý nghĩa thực
tiễn ở chỗ: Nếu muốn phát triển những công nghệ thuộc nhóm nào thì cần
phát triển các ngành khoa học tương ứng.
- Căn cứ vào sản phẩm, dịch vụ chủ yếu,đặc trưng sản xuất nhờ
công nghệ được xếp loại. Theo đó, các công nghệ được xếp thành từng
nhóm phục vụ cho việc sản xuất hoàn chỉnh những sản phẩm hoặc cung cấp
các dịch vụ. Ví dụ, người ta phân loại các công nghệ sản xuất ô tô, công
nghệ luyện kim, công nghệ truyền thanh, công nghệ quản lý Hiện nay
người ta đang sử dụng cách phân loại này khá nhiều để so sánh mức độ đầu
tư cho các công nghệ thuộc các ngành hàng. Nó cũng có ý nghĩa đối với các
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel : 0918.775.368
nhà nghiên cứu, thiết kế công nghệ bởi theo cách phân chia này, có thể dễ
dàng hình dung ra địa chỉ ứng dụng công nghệ.
- Căn cứ vào quá trình tạo ra công nghệ. Theo cách này, các công
nghệ được phân chia thành công nghệ do các tổ chức có nhu cầu về công
nghệ mới tự thiết kế và công nghệ được chuyển giao. Đây thường là cách
phân chia được áp dụng công nghệ cụ thể phục vụ cho việc quản lý công
nghệ và đánh giá năng lực công nghệ của doanh nghiệp.
- Căn cứ vào trình độ của các công nghệ trong tương quan với công
nghệ cùng loại và có tính "mới" của nó. Căn cứ này, các công nghệ trên
cùng một lĩnh vực được phân chia theo các "thế hệ" khác nhau. Thế hệ thứ
nhất được xem như thế hệ ban đầu. Những công nghệ thuộc thế hệ này là
những công nghệ xuất hiện đầu tiên trên lĩnh vực công nghệ được nghiên
cứu, phân loại. Do mỗi lĩnh vực có thể có sự tiến bộ khác nhau mà có những
lĩnh vực, công nghệ mới nhất đã được xếp vào thế hệ thứ 5, thứ 6 (trong khi
trên lĩnh vực khác, công nghệ mới nhất mới chỉ là thế hệ thứ 5). Những tiến
bộ nhờ cải tiến dần dần công nghệ đang được sử dụng có thể dẫn tới sự hình
thành công nghệ thuộc thế hệ mới. Mỗi "thế hệ" công nghệ thường có
những đặc trưng nhất định, trong đó có những nét mới, tiến bộ hơn về chất
so với thế hệ trước nó. Thậm chí công nghệ thế hệ mới trong mỗi lĩnh vực
nhất định có thể khác hẳn về nguyên lý so với những công nghệ cùng loại
trước đó.
Những cách phân loại công nghệ trên đây thường được kết hợp với
nhau, cho phép người ta sắp xếp các công nghệ thành một hệ thống có sự
phối hợp và xem xét nhiều chiều. Nhờ đó, mỗi công nghệ có thể được xem
xét một cách toàn diện và khái quát. Nó giúp việc nghiên cứu, quản lý công
nghệ tránh được sự phiến diện cả tầm vĩ mô và tầm vi mô. Điều này cũng
giúp cho các nhà hoạch định chính sách và quản lý khắc phục tình trạng bỏ
qua những lĩnh vực công nghệ mà ngay tại thời điểm nghiên cứu, phân tích,
đánh giá và hoạch định chính sách chưa được sử dụng nhiều hoặc chưa phát
huy được tác dụng của nó như mong muốn.
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel : 0918.775.368
2. Vai trò của công nghệ trong sự phát triển kinh tế xã hội
2.1. Vai trò và vị trí của công nghệ trong sản xuất kinh doanh
Đối với sản xuất kinh doanh trong sản xuất doanh nghiệp, công nghệ
có những vai trò sau đây:
- Công nghệ là một yếu tố cấu thành cơ sở vật chất, tạo nên điều kiện
tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Đặc biệt, công nghệ ảnh hưởng trực
tiếp và quyết định tới khả năng sản xuất sản phẩm ngày càng đa dạng, phong
phú để thoả mãn những nhu cầu phát triển của xã hội. Không có sự phát
triển của công nghệ, đặc biệt là những công nghệ mới, công nghệ có hàm
lượng chất xám cao, không thể đa dạng hoá sản xuất và cung cấp cho thị
trường nhiều sản phẩmcó ảnh hưởng quyết định tới nền sản xuất và đời sống
xã hội hiện đại. Nhiều sản sản phẩm mới chỉ có thể được sản xuất nhờ tiến
bộ công nghệ và đổi mới công nghệ, đặc biệt là những công nghệ cao. Hơn
nữa, trong nhiều trường hợp, những điều kiện sản xuất mới đòi hỏi phải có
những công nghệ phù hợp.
- Công nghệ là nhân tố ảnh hưởng trực tiếp tới năng lực cạnh tranh
của doanh nghiệp. Tác động này thể hiện trước tiên ở chỗ nhờ công nghệ và
tiến bộ công nghệ mà chất lượng sản phẩm được duy trì và nâng cao, chi phí
được tiết kiệm một cách tương đối để giá thành sản phẩm được giảm bớt,
sản phẩm mới có tính năng, công dụng tốt hơn có thể được thiết kế và đưa
vào sản xuất, tiêu dùng. Hơn nữa, trong điều kiện hiện nay, công nghệ đã
dần trở thành một "yếu tố sản xuất trực tiếp". Chính vì vậy, các doanh
nghiệp đều cố gắng đầu tư với quy mô ngày càng tăng vào công nghệ để tạo
ra sự phát triển nhanh chóng của công nghệ, việc đổi mới công nghệ chậm
hơn các đối thủ cạnh tranh chính là nguyên nhân tụt hậu của doanh nghiệp.
- Công nghệ tác động mạnh mẽ tới việc tạo lập một hình ảnh cho
doanh nghiệp. Những công nghệ đổi mới công nhệ và sản phẩm một cách
nhanh chóng, liên tục có thể tạo được sự tin tưởng của khách hàng. Nhờ vậy
họ dễ tạo lập, củng cố uy tín cho mình và từ đó tạo lập một hình ảnh thuận
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét