Bản thảo chuyên đề
Nguyễn Thị Hải Vân- Tài
chính 42C
thông ( thành phẩm, hàng hoá, tiền tệ và vốn trong thanh toán) nhằm phục vụ
cho quá trình sản xuất, kinh doanh cuả doanh nghiệp một cách thờng xuyên, liên
tục.
Vốn lu động và vốn cố định khác nhau ở phơng thức chu chuyển về mặt giá
trị cuả từng bộ phận vốn. Trong hai loại vốn này, vốn cố định có đặc điểm chu
chuyển chậm hơn vốn lu động. Trong khi vốn cố định chu chuyển một vòng thì
vốn lu động đã chu chuyển đợc nhièu vòng. Do vậy, việc tìm mọi biện pháp để
tăng nhanh tốc độ chu chuyển vốn lu động có ý nghĩa rất quan trọng trong việc
nâng cao hiệu quả sử dụng vốn.
Vốn lu động luôn đợc chuyển hoá qua nhiều hình thái khác nhau, bắt đầu từ
hình thái tiền tệ sang hình thái dự trữ vật t hàng hoá và cuối cùng lại trở về hình
thái tiền tệ ban đầu cuả nó. Quá trình sản xuất, kinh doanh cuả doanh nghiệp
diễn ra liên tục, không ngừng cho nên vốn lu động cũng tuần hoàn không ngừng
có tính chất chu kỳ, thành chu chuyển cuả tiền vốn. Do sự chu chuyển không
ngừng nên vốn lu động thờng xuyên có các bộ phận tồn tại cùng một lúc, dới
các hình thái khác nhau trong các lĩnh vực sản xuất và lu thông. Các giai đoạn
vận động cuả vốn đợc đan xen vào nhau, các chu kỳ sản xuất đợc lặp đi lặp lại.
Vốn lu động hoàn thành một vòng tuần hoàn sau một chu kỳ sản xuất.
Việc tổ chức và quản lý vốn lu động trong quá trình sản xuất kinh doanh
cũng là khâu rất quan trọng. Ngời quản lý phải biết xác định chính xác nhu cầu
vốn lu động tối thiểu, đảm bảo đủ vốn lu động cho quá trình sản xuất kinh
doanh đợc liên tục, tránh ứ đọng, đồng thời phải có giải pháp thích ứng nhằm
quản lý và sử dụng vốn lu động một cách có hiệu quả, đẩy nhanh tốc độ chu
chuyển vốn. Doanh nghiệp sử dụng vốn lu động càng có hiệu quả thì càng sản
xuất ra nhiều sản phẩm , điều đó thể hiện tốt sự kết hợp hài hoà quá trình mua
sắm và tiêu thụ.
c.Vốn tự có
Trờng đại học kinh tế quốc dân- khoa ngân hàng- tài chính
Bản thảo chuyên đề
Nguyễn Thị Hải Vân- Tài
chính 42C
Tất cả các doanh nghiệp thuộc mọi hình kinh doanh và mọi thành phần kinh
tế, muốn tiến hành sản xuất kinh doanh phải có vốn tự có
Đối với DNNN : Vốn tự có là giá trị thực có cuả vốn điều lệ do Nhà nớc quy
định và đợc Ngân sách Nhà nớc cấp phát.
Đối với Công ty cổ phần : Vốn tự có hình thành từ vốn cổ phần.
Đối với doanh nghiệp t nhân : Vốn tự có là vốn riêng cuả chủ sở hữu
Nói chung vốn tự có là bộ phận vốn quan trọng thể hiện hình thức tiền tệ nằm
trong tổng vốn hoạt động cuả doanh nghiệp.
Ưu điểm cuả vốn tự có :
Vốn tự có càng lớn, doanh nghiệp càng đỡ phải đi vay, giảm đợc chi phí đầu
vào mà vẫn mở rộng đợc sản xuất kinh doanh. Trong kinh doanh, vốn tự có
không chỉ là cái lá chắn chống lại những rủi ro cuả thơng trờng mà còn là cơ sở
cho sự giám mạo hiểm để thực hiện những tính toán có lợi trong sản xuất kinh
doanh. Ngợc lại, vốn tự có càng mỏng thì rủi ro trong kinh doanh càng lớn. Chi
phí phải trả vốn đi vay làm giảm một phần quan trọng thu nhập cuả doanh
nghiệp. Liên hệ với thực tiễn nớc ta, vốn tự có cuả các doanh nghiệp Nhà nớc
quá mỏng, vốn vay Ngân hàng chiếm tới 70-80% tổng mức vốn hoạt động. Do
đó tỷ suất lợi nhuận cuả các doanh nghiệp rất thấp, ít có khả năng tăng thêm để
thực hiện tái sản xuất mở rộng.
Có vốn tự có lớn, các doanh nghiệp mới xây dựng đợc cơ sở vật chất khang
trang, mua sắm đợc những trang thiết bị tối tân phục vụ cho hoạt động sản xuất
kinh doanh, đảm bảo thắng lợi trong cạnh tranh với các doanh nghiệp khác.
Hoạt động sản xuất kinh doanh luôn có những rủi ro bất thờng, vốn tự có cuả
mỗi doanh nghiệp dày hay mỏng chính là cái đệm chống đỡ những cú đánh cuả
thơng trờng. Đồng thời vốn tự có còn là nguồn nội lực để các doanh nghiệp dám
chấp nhận mạo hiểm, không ngại trả giá để chớp lấy những thời cơ lớn có lợi
Trờng đại học kinh tế quốc dân- khoa ngân hàng- tài chính
Bản thảo chuyên đề
Nguyễn Thị Hải Vân- Tài
chính 42C
trong kinh doanh . Nói nh vậy để thấy rằng trong kinh doanh tiền tệ vốn tự có có
ý nghĩa rất to lớn.
Khi đề cập đến nguồn vốn tự có, không thể không nói đến nguồn lực con ng-
ời- đây là nguồn vốn tự có quý giá nhất.
Trong việc sử dụng nguồn vốn tự có, ngoài vốn bằng tiền, các doanh nghiệp
cần tích cực bồi dỡng để khai thác những nguồn vốn tự có hữu hình và vô hình
khác. Đó là sự nâng cao chất lợng và trình độ nguồn nhân lực tự có bằng cách
bồi dỡng cập nhật các kiến thức nghiệp vụ, kỹ năng vận hành, kỹ thuật kinh
doanh, nghệ thuật giao tiếp cho đội ngũ cán bộ nhân viên cuả mình. Danh tiếng
và uy tín cuả doanh nghiệp cũng là vốn tự có vô hình, mỗi thành viên trong
doanh nghiệp cần luôn luôn vun đắp, giữ gìn.
Xu hớng cuả thế giới ngày nay là tiến tới tri thức và toàn cầu hoá, dựa trên
nền tảng những thành tựu cuả khoa học và công nghệ. Xu hớng này đang chi
phối tất cả các hoạt động chính trị, kinh tế, xã hội, văn hoá, giáo dục Lĩnh vực
nào, tổ chức nào không thích ứng với nó sẽ dễ dàng bị rớt lại phía sau hoặc bị
nhấn chìm bởi những đợt sóng cách mạng công nghệ diễn ra dồn dập, liên tiếp.
Với bất kỳ một doanh nghiệp nào, vốn là một yếu tố rất quan trọng. Song yếu tố
quyết định là những con ngời biết điều hành nguồn vốn một cách thông minh,
sáng tạo nhằm giảm thiểu rủi ro, giành thắng lợi cao nhất trong cạnh tranh. Bởi
thế, các nớc ASEAN đã nhận định : Vấn đề trung tâm hiện nay là nâng cao
chất lợng và trình độ nhân lực. Mỗi doanh nghiệp cần gắng sức bồi dỡng toàn
diện nguồn nhân lực con ngời- nguồn vốn tự có quý giá cuả mình trong tiến
trình hội nhập.
d.Vốn điều lệ
Trong nhiều diễn đàn và trong công luận ở nớc ta, ngời ta bàn đến khá nhiều
về vốn điều lệ. Tình trạng khó khăn trong kinh doanh cuả doanh nghiệp, lợi
nhuận thấp, hàng hoá tiêu thụ chậm, không đổi mới đợc dây chuyền, thiết
bị ngời ta cũng cho rằng do vốn điều lệ cuả doanh nghiệp thấp, do ngân sách
Trờng đại học kinh tế quốc dân- khoa ngân hàng- tài chính
Bản thảo chuyên đề
Nguyễn Thị Hải Vân- Tài
chính 42C
không cấp đủ vốn cho doanh nghiệp, do doanh nghiệp hoạt động chủ yếu bằng
vốn vay Ngân hàng Vậy vốn điều lệ là gì ?
Một doanh nghiệp,dù là thành lập mới hay thành lập lại đều phải có một số
vốn điều lệ nhất định, theo quy định trong điều lệ cuả doanh nghiệp. Số vốn này
thờng cao hơn hoặc bằng vốn pháp định- một số vốn theo quy định cuả pháp luật
đối với mỗi loại hình doanh nghiệp.
Đối với Việt Nam, vốn điều lệ cuả doanh nghiệp Nhà nớc do Ngân sách Nhà
nớc cấp. Việc quản trị số vốn đó do Hội đồng quản trị cuả doanh nghiệp và cục
quản lý vốn và tài sản tại doanh nghiệp Nhà nớc quản lý.
Đối với doanh nghiệp t nhân ở dạng Công ty trách nhiệm hữu hạn hay doanh
nghiệp t nhân do 1-2 thể nhân, cá nhân bỏ vốn thành lập và tổ chức hoạt động
thì số vốn họ bỏ ra là vốn điều lệ. Cá nhân đó tự bỏ vốn ra, tự quản trị và điều
hành doanh nghiệp cũng nh tự quản trị số vốn đã bỏ ra. Đối với doanh nghiệp t
nhân ở dạng Công ty cổ phần, vốn điều lệ do các cổ đông đóng góp. Cuối mỗi
năm tài chính, lợi tức cũng phải đợc chia cho các cổ đông theo cổ phần do họ
góp vào. Mức cụ thể do Hội đồng quản trị, Đại hội cổ đông quyết định trên cơ
sở lợi nhuận sau thuế, việc để lại các quỹ theo chiến lợc kinh doanh và theo luật
định.
e.Vốn pháp định
Vốn pháp định là số vốn đầu t tối thiểu mà pháp luật quy định phải có để
thành lập doanh nghiệp. Nh vậy, nếu pháp luật quy định vốn pháp định, thì nó
trở thành một trong những điều kiện để thành lập doanh nghiệp.
Xét theo quan niệm pháp lý truyền thống, thì mục đích cuả yêu cầu về mức
vốn tối thiểu phải có nh một điều kiện thành lập doanh nghiệp là để bảo vệ lợi
ích cuả chủ nợ. Về sự cần thiết cuả vốn pháp định ở Việt Nam, có nhiều ý kiến
khác nhau:
Có ý kiến cho rằng: vốn pháp định còn có các mục tiêu khác nh: đảm bảo uy
tín cuả doanh nghiệp đối với khách hàng hoặc làm cơ sở để cho vay nợ.
Trờng đại học kinh tế quốc dân- khoa ngân hàng- tài chính
Bản thảo chuyên đề
Nguyễn Thị Hải Vân- Tài
chính 42C
Có ý kiến lại khẳng định sự cần thiết cuả vốn pháp định bằng một luận điểm
là kinh doanh thì phải có vốn, nên pháp luật cần phải có quy định về vốn pháp
định .
Một ý kiến khác lại cho rằng: cần phải có vốn pháp định, vì nếu không, thì
những ngời không có vốn cũng thành lập đợc doanh nghiệp.
Không thể phủ nhận rằng: kinh doanh phải có vốn, nhng việc kinh doanh đòi
hỏi phải có vốn và việc đặt ra một mức vốn tối thiểu làm điều kiện để thành lập
doanh nghiệp là 2 vấn đề không giống nhau.
Vốn pháp định phải có cho một doanh nghiệp thành lập là một quy định cuả
pháp luật để ràng buộc trách nhiệm dân sự, thậm chí cả trách nhiệm hình sự khi
cần thiết đối với một doanh nghiệp có sự vi phạm. Tuy vậy, nếu pháp luật đặt ra
vốn pháp định nh một điều kiện để thành lập doanh nghiệp, thì nó lại gây không
ít tác động tiêu cực cho các nhà đầu t.
Tác hại đầu tiên mà quy định về vốn pháp định có thể gây ra là ngăn cản việc
thành lập doanh nghiệp mới. Việc đặt ra yêu cầu về vốn pháp định có nghĩa là
chính sách cuả Nhà nớc đã quá nhấn mạnh tới nguồn vốn bằng tiền và đánh giá
thấp các loại vốn vô hình nh: sáng kiến kinh doanh, trình độ và kỹ năng quản lý
kinh doanh. Trong khi đó, sáng kiến và sáng tạo trong kinh doanh cũng nh khả
năng quản lý lại là yếu tố không thể thiếu đợc, có khi lại là yếu tố quyết định
trong thành lập doanh nghiệp.
Việc đặt ra yêu cầu về vốn pháp định sẽ là một trong những hạn chế đối với
thành lập doanh nghiệp ở những vùng nông thôn, vùng có thu nhập thấp. Do đó,
việc đặt ra yêu cầu về vốn pháp định sẽ góp phần làm giảm khả năng khai thác
các tiềm năng cuả vùng nông thôn, qua đó ảnh hởng không tốt đến phát triển
kinh tế nông thôn.
Vốn pháp định có thể gây nhầm lẫn đối với chủ nợ không có kinh nghiệm,
qua đó có thể gây thiệt hại đến lợi ích hợp pháp cuả họ. Ngoài ra, việc thực hiện
quy định về vốn pháp định đòi hỏi ngời thành lập doanh nghiệp phải làm thêm
Trờng đại học kinh tế quốc dân- khoa ngân hàng- tài chính
Bản thảo chuyên đề
Nguyễn Thị Hải Vân- Tài
chính 42C
nhiều thủ tục khi thành lập doanh nghiệp, làm cho chi phí để thành lập doanh
nghiệp tăng lên và điều đó càng làm trầm trọng thêm tác hại cuả vốn pháp định
trong việc ngăn cản thành lập mới doanh nghiệp. Ngăn cản việc thành lập mới
doanh nghiệp cũng đồng nghĩa với ngăn cản sự phát triển kinh doanh, phát triển
kinh tế và xã hội nói chung.
Với những nhợc điểm này, quyết định bỏ quy định về mức vốn tối thiểu nh
một điều kiện thành lập doanh nghiệp là điều nên làm. Bảo vệ lợi ích cuả chủ nợ
là yêu cầu chính đáng nhng nên sử dụng công cụ nợ và cơ chế khác ít tốn kém
hơn và có hiệu lực hơn. Một trong những cơ chế và công cụ đó là so sánh giá trị
vốn thuộc sở hữu cuả doanh nghiệp và giá trị tổng số nợ cuả doanh nghiệp, cụ
thể là tỷ lệ số nợ phải trả trên tổng số vốn thuộc sở hữu Công ty.
1.1.2 Các nguồn vốn cuả doanh nghiệp và phơng thức huy động
Tuỳ theo loại hình doanh nghiệp và các đặc điểm cụ thể, mỗi doanh nghiệp
có thể có các phơng thức huy động vốn khác nhau. Trong điều kiện kinh tế thị
trờng, các phơng thức huy động vốn cuả doanh nghiệp đợc đa dạng hoá nhằm
khai thác mọi nguồn vốn trong nền kinh tế.
Các nguồn vốn và các phơng thức huy động vốn mà các doanh nghiệp áp
dụng
a.Nguồn vốn chủ sở hữu cuả doanh nghiệp
Đối với mọi loại hình doanh nghiệp, vốn chủ sở hữu cuả doanh nghiệp bao
gồm các bộ phận chủ yếu:
Vốn góp ban đầu
Lợi nhuận không chia
Tăng vốn bằng cách phát hành cổ phiếu mới
* Vốn góp ban đầu
Khi doanh nghiệp đợc thành lập bao giờ chủ doanh nghiệp cũng phải có một
số vốn ban đầu nhất định do các cổ đông- chủ sở hữu góp. Khi nói đến nguồn
vốn chủ sở hữu cuả doanh nghiệp bao giờ cũng phải xem xét hình thức sở hữu
Trờng đại học kinh tế quốc dân- khoa ngân hàng- tài chính
Bản thảo chuyên đề
Nguyễn Thị Hải Vân- Tài
chính 42C
cuả doanh nghiệp đó, vì hình thức sở hữu sẽ quyết định tính chất và cách thức
tạo vốn cuả bản thân doanh nghiệp.
Đối với doanh nghiệp Nhà nớc, vốn góp ban đầu chính là vốn đầu t ban đầu
cuả Nhà nớc. Chủ sở hữu cuả các doanh nghiệp Nhà nớc là Nhà nớc .
Đối với các doanh nghiệp, theo Luật doanh nghiệp, chủ doanh nghiệp phải có
một số vốn ban đầu cần thiết để xin đăng ký thành lập doanh nghiệp.
Chẳng hạn, đối với Công ty cổ phần, vốn do các cổ đông đóng góp là yếu tố
quyết định để thành lập Công ty.Mỗi cổ đông là một chủ sở hữu cuả Công ty và
chỉ chịu trách nhiệm hữu hạn trên giá trị cổ phần mà họ nắm giữ. Tuy nhiên,
các Công ty cổ phần cũng có một số dạng tơng đối khác nhau, do đó cách thức
huy động vốn cổ phần cũng khác nhau. Trong các loại hình doanh nghiệp khác
nh Công ty trách nhiệm hữu hạn, Công ty có vốn đầu t trực tiếp nớc ngoài, các
nguồn vốn cũng tơng tự nh trên; tức là vốn có thể chủ đầu t bỏ ra, do các bên
tham các đối tác góp,v.v
* Nguồn vốn từ lợi nhuận không chia
Quy mô số vốn ban đầu cuả chủ doanh nghiệp là một yếu tố quan trọng, tuy
nhiên, thông thờng, số vốn này cần đợc tăng theo quy mô phát triển cuả doanh
nghiệp. Trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, nếu doanh nghiệp hoạt
động có hiệu quả thì doanh nghiệp sẽ có những điều kiện thuận lợi để tăng trởng
nguồn vốn. Nguồn vốn tích luỹ từ lợi nhuận không chia là bộ phận lợi nhuận đ-
ợc sử dụng tái đầu t, mở rộng sản xuất kinh doanh cuả doanh nghiệp.
Tự tài trợ bằng lợi nhuận không chia- nguồn vốn nội bộ là một phơng thức
tạo nguồn tài chính quan trọng và khá hấp dẫn cuả các doanh nghiệp, vì doanh
nghiệp giảm đợc chi phí, giảm bớt sự phụ thuộc vào bên ngoài. Rất nhiều doanh
nghiệp coi trọng chính sách tái đầu t từ lợi nhuận không chia, họ đặt ra mục tiêu
phải có một khối lợng lợi nhuận để lại đủ lớn nhằm tự đáp ứng nhu cầu vốn
ngày càng tăng.
Trờng đại học kinh tế quốc dân- khoa ngân hàng- tài chính
Bản thảo chuyên đề
Nguyễn Thị Hải Vân- Tài
chính 42C
Nguồn vốn tái đầu t từ lợi nhuận để lại chỉ có thể thực hiện đợc nếu nh
doanh nghiệp đã và đang hoạt động và có lợi nhuận, đợc phép tiếp tục đầu t. Đối
với các doanh nghiệp Nhà nớc thì việc tái đầu t phụ thuộc không chỉ vào khă
năng sinh lợi cuả bản thân doanh nghiệp mà còn phụ thuộc vào chính sách
khuyến khích tái đầu t cuả Nhà nớc.
Tuy nhiên, đối với các Công ty cổ phần thì việc để lại lợi nhuận liên quan
đến một số yếu tố rất nhạy cảm. Khi Công ty để lại một phần lợi nhuận trong
năm cho tái đầu t, tức là không dùng số lợi nhuận đó để chia lãi cổ phần, các cổ
đông không đợc nhận tiền lãi cổ phần nhng bù lại, họ có quyền sở hũu số vốn cổ
phần tăng lên cuả Công ty.
Nh vậy, giá trị ghi sổ cuả các cổ phiếu sẽ tăng lên cùng với việc tự tài trợ
bằng nguồn vốn nội bộ. Điều này một mặt, khuyến khích cổ đông giữ cổ phiếu
lâu dài, nhng mặt khác, dễ làm giảm tính hấp dẫn cuả cổ phiếu trong thời kỳ tr-
ớc mắt do cổ đông chỉ nhận đợc một phần cổ tức nhỏ hơn. Nếu tỷ lệ chi trả cổ
tức thấp, hoặc số lãi ròng không đủ hấp dẫn thì giá cổ phiếu có thể bị giảm sút.
* Phát hành cổ phiếu
Trong hoạt động sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp có thể tăng vốn chủ sở
hữu bằng cách phát hành cổ phiếu mới.Đây đợc coi là hoạt động tài trợ dài hạn
cuả doanh nghiệp. Có nhiều loại cổ phiếu khác nhau và mỗi loại có đặc trng
riêng cuả nó.
- Cổ phiếu thờng
Cổ phiếu thờng ( còn gọi là cổ phiếu thông thờng ) là loại cổ phiếu thông
dụng nhất vì nó có những u thế trong việc phát hành ra công chúng và trong quá
trình lu hành trên thị trờng chứng khoán. Cổ phiếu thờng là chứng khoán quan
trọng nhất đợc trao đổi, mua bán trên thị trờng chứng khoán.
Mặc dù việc phát hành cổ phiếu có nhiều u thế so với các phơng thức huy
động vốn khác nhng cũng có những hạn chế và các ràng buộc cần đợc doanh
Trờng đại học kinh tế quốc dân- khoa ngân hàng- tài chính
Bản thảo chuyên đề
Nguyễn Thị Hải Vân- Tài
chính 42C
nghiệp cân nhắc kỹ lỡng. Một trong những quy định ràng buộc đó là giới hạn
phát hành. Lợng cổ phiếu tối đa mà Công ty đợc quyền phát hành gọi là vốn cổ
phiếu đợc cấp phép. Đây là một trong những quy định cuả Uỷ ban chứng khoán
Nhà nớc nhằm quản lý và kiểm soát chặt chẽ các hoạt động phát hành và giao
dịch chứng khoán. Tại nhiều nớc, số cổ phiếu đợc phép phát hành đợc ghi trong
điều lệ cuả Công ty; tuy nhiên, một số nớc khác không quy định ghi số lợng đó
trong điều lệ Công ty. Muốn tăng vốn cổ phần thì trớc hết cần phải đợc đại hội
cổ đông cho phép, sau đó phải hoàn tất những thủ tục quy định khác.
Sau khi phát hành, phần lớn những cổ phiếu nằm trong tay các nhà đầu t- các
cổ đông. Những cổ phiếu này gọi là những cổ phiếu đang lu hành trên thị trờng.
Tuy nhiên, có thể chính Công ty phát hành mua lại số cổ phiếu cuả mình và giữ
chúng nhằm mục đích nào đó. Những cổ phiếu đợc Công ty mua lại đó gọi là cổ
phiếu ngân quỹ. Những cổ phiếu này đợc coi nh tạm thời không lu hành. Việc
mua lại hoặc bán những cổ phiếu này phụ thuộc vào một số yếu tố nh:
- Tình hình cân đối vốn và khả năng đầu t
- Tình hình biến động thị giá chứng khoán trên thị trờng
- Chímh sách đối với việc sáp nhập hoặc thôn tính Công ty
- Tình hình trên thị trờng chứng khoán và quy định cuả Uỷ ban chứng
khoán Nhà nớc
- Mệnh giá và thị giá
Giá trị ghi trên mặt cổ phiếu gọi là mệnh giá, giá cả cuả cổ phiếu trên thị tr-
ờng gọi là thị giá. Giá trị cuả cổ phiếu đợc phản ánh trên sổ sách kế toán cuả
Công ty gọi là giá trị ghi sổ, đó cũng chính là mệnh giá cuả các cổ phiếu đã phát
hành.Mệnh giá không chỉ đợc ghi trên mặt cổ phiếu mà còn đợc ghi rõ trong
giấy phép phát hành và trên sổ sách kế toán cuả Công ty. Tuy nhiên, mệnh giá
chỉ có ý nghĩa khi phát hành cổ phiếu và đối với khoảng thời gian ngắn sau khi
Trờng đại học kinh tế quốc dân- khoa ngân hàng- tài chính
Bản thảo chuyên đề
Nguyễn Thị Hải Vân- Tài
chính 42C
cổ phiếu đợc phát hành. Thị giá phản ánh sự đánh giá cuả thị trờng đối với cổ
phiếu, phản ánh lòng tin cuả các nhà đầu t đối với hoạt động cuả Công ty.
Quyền lợi cuả cổ đông
Các cổ đông nắm giữ cổ phiếu thờng chính là những ngời sở hữu Công ty, do
đó họ đợc quyền tham gia quyết định những vấn đề quan trọng cuả Công ty,
thông qua việc bỏ phiếu bầu HĐQT và biểu quyết các vấn đề lớn, nh chính sách
đầu t, phân phối cuả Công ty.Với t cách ngời chủ, họ đợc quyền chia sẻ thành
quả hoạt động cuả Công ty nhng cũng phải cùng gánh vác những tổn thất cuả nó
nếu có. Nghĩa là khi Công ty làm ăn phát đạt, họ đợc hởng lợi nhuận, nhng khi
Công ty thất bại, họ sẽ thiệt thòi, còn trong trờng hợp xấu nhất là Công ty phải
thanh lý hoặc giải thể, họ là ngời cuối cùng đợc nhận những gì còn lại ( nếu có )
sau khi Công ty trang trải tất cả các khoản nghĩa vụ. Ngoài ra, mỗi khi Công ty
tăng vốn bằng cách phát hành thêm cổ phiếu, họ đợc quyền đặt mua trớc cổ
phiếu mới tơng ứng với số cổ phần họ đang nắm giữ. Quyền này cho phép họ
duy trì đợc tỷ lệ sở hữu ban đầu mỗi khi lợng cổ phiếu phát hành tăng thêm.
Với loại cổ phiếu này, tỷ lệ cổ tức không cố định mà tuỳ thuộc vào kết quả
hoạt động dồng thời tuỳ thuộc vào chính sách phân phối cuả Công ty. Nếu
HĐQT quyết định giành phần lớn hay toàn bộ lợi nhuận để tái đầu t cho sản
xuất kinh doanh, thì ngay cả khi Công ty đang làm ăn có lãi, tỷ lệ cổ tức sẽ thấp
hoặc thậm chí bằng không. Khi đó, thay vì nhận đợc lợi nhuận trớc mắt, cổ đông
sẽ đợc hởng lợi ích lâu dài do việc tái đầu t cho tăng trởng cuả Công ty.
- Cổ phiếu u tiên
Cổ phiếu u tiên là loại cổ phiếu có cổ tức cố định, không phụ thuộc vào thu
nhập và là chứng chỉ tham gia góp vốn đối Công ty. Cổ phiếu u tiên chỉ chiếm
một tỷ lệ nhỏ trong tổng số cổ phiếu đợc phát hành.
Các cổ phiếu u đãi có thể đợc chính Công ty phát hành thu hồi lại khi Công
ty thấy cần thiết. Một vấn đề rất quan trọng cần đề cập khi phát hành cổ phiếu u
Trờng đại học kinh tế quốc dân- khoa ngân hàng- tài chính
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét