Chủ Nhật, 23 tháng 2, 2014

Bồi dưỡng kiến thức Quản lý Nhà nước – Chương trình Chuyên viên – Từ 4/8 đến 7/11/2003

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
LỚP BỒI DƯỠNG KIẾN THỨC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
CHƯƠNG TRÌNH CHUYÊN VIÊN
TỔ CHỨC TẠI CỤCTHUẾ HÀ NỘI
*******
TIỂU LUẬN
XỬ LÝ TÌNH HUỐNG KHAI MAN TRỐN THUẾ
TRONG KINH DOANH CỦA DOANH NGHIỆP
TƯ NHÂN XĂNG DẦU BK
Họ và tên : Nguyễn Anh Thư
Chức vụ : Kiểm soát viên thuế
Đơn vị công tác: Cục thuế thành phố Hà Nội
Trang 5
Hà Nội,tháng 10/2003
Trang 6
Phần nội dung
I. MÔ TẢ TÌNH HUỐNG
1. Qua công tác điều tra vụ án các tổ chức kinh doanh xăng dầu có
hành vi trốn thuế, Công an Thành phố HN đã phát hiện trong năm 2000, và
2001, khi thực hiện hợp đồng Tổng đại lý bao tiêu bán lẻ xăng dầu với Công
ty xăng dầu HB huyện M– Tỉnh HB, Công ty TM YK đã tự ý chuyển
5.200.700 lít xăng dầu mua theo hợp đồng Tổng đại lý bán thẳng cho 10 đơn
vị đại lý xăng dầu tại Thành phố HN, trong đó có DNTN Xăng dầu BK. Thủ
tục xuất bán xăng dầu phần lớn được thực hiện theo quy định, tuy nhiên có
nhiều trường hợp được phát hiện xăng dầu xuất bán dưới hình thức giấy viết
tay do người nhận hàng viết, Công ty TM YK căn cứ các giấy viết tay này
lập lại hoá đơn GTGT ghi tên, địa chỉ theo yêu cầu của người mua nên đã
ghi nhiều tên, địa chỉ không cụ thể nhằm xé lẻ lượng hàng mua được, giấu
doanh thu để trốn thuế.
Cơ quan cảnh sát điều tra Công an Thành phố HN đã xem xét khởi tố
vụ án hình sự điều tra, làm rõ những đối tượng có hành vi trốn thuế với số
lượng lớn để xử lý theo quy định của pháp luật. Riêng trường hợp DNTN
xăng dầu BK cùng 6 đơn vị khác do số tiền trốn thuế kinh doanh xăng dầu
chưa đến mức xử lý bằng Luật hình sự theo hướng dẫn xử lý tội trốn thuế
được quy định tại Thông tư liên ngành số 06/TTLN ngày 20/6/1996 của Toà
án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ nội vụ, nên ngày
11/5/2002, Công an Thành phố HN đã có công văn số 38/PV11(PC15) thông
báo số liệu xăng dầu mua bán trốn thuế gởi Cục thuế Thành phố HN (Kèm
theo toàn bộ hồ sơ có liên quan) để Cục thuế có kế hoạch kiểm tra xử lý theo
thẩm quyền.
2. Sau khi nhận được hồ sơ từ Công an Thành phố HN, Cục thuế
Thành phố HN đã tiến hành xem xét lại toàn bộ hồ sơ vụ việc và ngày
15/10/2002, Đoàn kiểm tra của Cục thuế Thành phố HN đã làm việc trực
tiếp với DNTN xăng dầu BK, đồng thời cùng DN thực hiện đối chiếu sổ
Trang 7
sách kế toán năm 2000,2001 của đơn vị, kết quả cụ thể đã được xác lập bằng
biên bản với nội dung như sau:
- Căn cứ theo hồ sơ và số liệu do Công an TP cung cấp thì trong năm
2000, 2001 DNTN XD BK có mua hàng tại Công ty TM YK với số lượng
thể hiện trên 41 chứng từ, hoá đơn, gồm:
+ Xăng: 95.250 lít - Thành tiền: 390.545.694 đồng.
+ Dầu Diezen: 222.610 lít - Thành tiền: 712.535.600 đồng.
Tổng cộng: 1.106.081.294 đồng.
Trong số này, DNTN XD Thu Thu đã thực hiện ghi chép, phản ánh
vào sổ sách kế toán của đơn vị 16 tờ hoá đơn với tổng giá trị 477.574.255
đồng, gồm:
+ 7 hoá đơn mua xăng với số lượng 54.350 lít – Trị giá 222.059.250 đồng.
+ 9 hoá đơn mua dầu với số lượng 80.500 lít – Trị giá 255.515.005 đồng.
Như vậy DNTN XD BK đã để ngoài sổ sách kế toán đối với lượng
hàng xăng dầu mua tại Công ty TM YK thể hiện trên 25 tờ hoá đơn còn lại
với trị giá mua vào là 628.507.039 đồng, gồm:
+ Xăng: 40.900 lít - Trị giá 168.486.444 đồng.
+ Dầu: 142.110 lít – Trị giá 475.020.595 đồng.
Trong số 25 tờ hoá đơn này, có một số hoá đơn ghi tên người mua là
DNTN xăng dầu BK, số còn lại tên và địa chỉ người mua không phải của
DNTN xăng dầu BH, tuy nhiên theo cung cấp của Công ty TM YK, việc
Công ty xuất bán hàng cho doanh nghiệp nhưng lại ghi tên của người khác là
theo yêu cầu của bà K.A – Chủ DNTN xăng dầu BK, bên Công ty đã xuất
trình cho Công an TP HN các chứng từ do bà K.A viết để yêu cầu Công ty
TM YK đổi tên người mua trên hoá đơn.
- Tại buổi làm việc, bà K.A – chủ DNTN xăng dầu BK đã thừa nhận
có mua hàng tại Công ty TM YK với số lượng đã kê trên, tuy nhiên bà cho
biết thực tế bà chỉ trực tiếp mua hàng và nhập về kho của DN với số lượng
hàng của 16 tờ hoá đơn mà đơn vị đã ghi chép vào sổ sách và đã kê khai nộp
Trang 8
thuế khi bán hàng, còn đối với 25 tờ hoá đơn không vào sổ sách của đơn vị,
không kê khai nộp thuế với cơ quan thuế là do DN chỉ đứng ra làm trung
gian môi giới bán hàng cho Công ty TM YK để hưởng hoa hồng 10đồng/lít
xăng dầu, bà trực tiếp nhận hàng tại Công ty TM YK và giao lại cho các
khách hàng mua (thực chất là hình thức mua bán “sang tay ba”), việc ghi hoá
đơn do Công ty TM YK thực hiện. Việc thanh toán tiền trong các trường
hợp này do bà chịu trách nhiệm chi trả, tức là trong quan hệ thanh toán,
Công ty TM YK chỉ thực hiện trực tiếp với bà K.A mà không nhận tiền trả
từ các khách hàng mua do bà K.A “môi giới”. Đồng thời bà K.A cũng cho
biết hoạt động trung gian của bà cho Công ty TM YK chỉ được thực hiện
bằng thoả thuận miệng giữa bà và Ban giám đốc Công ty, chứ không bằng
bất cứ văn bản nào (Như hợp đồng môi giới,…).
3. Từ hồ sơ, số liệu đã thu thập được và kết quả làm việc với DNTN
XD BK, Đoàn kiểm tra - Cục thuế TP HN đã xác định: Mối quan hệ giữa
DNTN BK với Công ty TM YK là mối quan hệ mua bán vì các hợp đồng
kinh tế đã ký kết giữa 2 bên là hợp đồng mua bán xăng dầu chứ không phải
là hợp đồng môi giới hay đại lý hưởng hoa hồng. Do vậy việc bà K.A trình
bày là chỉ làm trung gian để hưởng hoa hồng là không có căn cứ, còn việc
hoá đơn ghi tên người mua không phải tên của DNTN BK là do phía Công
ty TM YK ghi theo yêu cầu của bà (thể hiện trên các chứng từ bên Công ty
đã cung cấp). Mặt khác, về phía Công ty TM YK cũng đã xác nhận trên
bảng kê chứng từ cung cấp cho Công an TP HN là thể hiện mối quan hệ mua
bán.
Trên cơ sở kiểm tra, xem xét, đối chiếu hồ sơ, ngày 12/11/2002, Cục
thuế TP HN đã tiến hành làm việc lại với DNTN XD BK để xác định hành
vi vi phạm đối với đơn vị. Nội dung biên bản đã ghi rõ: Trong 2 năm
2000,2001 DNTN XD BK đã mua xăng dầu của Công ty TM YK để bán
nhưng không ghi chép vào sổ sách kế toán của đơn vị, không kê khai nộp
thuế với tổng giá trị là 628.507.039 đồng. Như vậy, doanh nghiệp đã có hành
vi man khai trốn thuế vi phạm Điều 13 Luật thuế giá trị gia tăng và Điều 11
Luật thuế thu nhập doanh nghiệp.
Trang 9
4. Căn cứ theo Điều 19 Luật thuế giá trị gia tăng (GTGT), Điều 24
Luật thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN) và các qui định về việc xử phạt
đối với hành vi trốn thuế, Cục thuế TP HN đã ra Quyết định số 366/QĐ-CT
ngày 17/12/2002 về việc xử lý vi phạm đối với DNTN xăng dầu BK :
- Truy thu thuế GTGT và thuế TNDN: 31.425.351 đồng.
Trong đó: Thuế GTGT : 9.741.858 đồng.
Thuế TNDN: 21.683.493 đồng.
- Phạt 01 lần thuế GTGT-TNDN, số tiền là 31.425.351 đồng.
- Thời hạn nộp: Chậm nhất đến hết ngày 30/12/2002
(Ghi chú: Do đơn vị man khai trốn thuế nên thuế GTGT và thuế
TNDN truy thu và phạt được tính ấn định theo quy định tại Quyết định số
6852 CT/NV ngày 24/7/2000 của Cục trưởng Cục thuế TP HN về việc ban
hành biểu tỷ lệ GTGT và tỷ lệ thu nhập chịu thuế tính trên doanh thu để tính
thuế GTGT và thuế TNDN đối với các cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ
nộp thuế theo phương pháp trực tiếp không thực hiện hoặc thực hiện không
đầy đủ chế độ kế toán, chế độ hoá đơn chứng từ.).
5. Sau khi nhận được Quyết định xử lý số 366/QĐ-CT của Cục thuế
TP HN, ngày 21/12/2002, DNTN XD BK đã có đơn khiếu nại gởi đến Cục
thuế TP HN đề nghị xem xét lại việc xử lý đối với DN, vì cho rằng đơn vị
chỉ đứng ra làm trung gian môi giới chứ không mua hàng trực tiếp của Công
ty TM YK, mặt khác đây là vi phạm lần đầu nên việc Cục thuế xử phạt 01
lần thuế là quá nặng.
Tiếp nhận được đơn khiếu nại của DNTN XD BK, ngày 25/12/2002,
Cục thuế TP HN đã ra Công văn số 1330/CT-TTr giải quyết đơn của doanh
nghiệp với nội dung giữ nguyên Quyết định xử lý đối với doanh nghiệp, yêu
cầu đơn vị chấp hành.
6. Ngày 2/01/2003, DNTN xăng dầu BK đã làm đơn khởi kiện Quyết
định xử lý số 366/QĐ-CT ngày 17/12/2002 của Cục thuế TP HN ra Toà
Hành chính – Toà án nhân dân TP HN.
Trang 10
Ngày 16/2/2003, Toà án nhân dân TP HN đã mở phiên toà công khai
để xét xử sơ thẩm vụ kiện với sự có mặt của bà K.A - Chủ DNTN Xăng dầu
BK (Người khởi kiện), đại diện của Cục thuế TP HN (Người bị kiện) và
Công ty TM YK (Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan).
Tại Bản án số 01/HCST ngày 16/2/2003, Toà án nhân dân TP HN đã
tuyên xử:
- Bác đơn của bà K.A - Chủ DNTN Xăng dầu BK khởi kiện Quyết
định số 366/QĐ-CT ngày 17/12/2002 của Cục thuế TP HN vì không có căn
cứ.
- Công nhận việc ban hành Quyết định số 366/QĐ-CT ngày
17/12/2002 của Cục thuế TP HN là đúng pháp luật.
- Bà K.A phải chịu án phí hành chính sơ thẩm.
Các bên đương sự có quyền kháng cáo trong thời hạn 10 ngày kể từ
ngày tuyên án.
7. Ngày 21/2/2003, Bà K.A tiếp tục làm đơn kháng cáo lên Toà án
nhân dân tối cao đề nghị xem xét lại bản án sơ thẩm của Toà án nhân dân TP
HN.
Ngày 10/4/2003, Toà án nhân dân tối cao đã mở phiên toà để xét xử
phúc thẩm vụ án hành chính.
Tại bản án số 15/2003/HCPT ngày 10/4/2003, Toà Phúc thẩm đã
tuyên xử: Bác đơn kháng cáo của bà K.A và giữ nguyên án sơ thẩm.
II. XÁC ĐỊNH MỤC TIÊU XỬ LÝ TÌNH HUỐNG:
1/ Mục tiêu của DNTN xăng dầu BK:
Để có thể nhận thức và đánh giá được hành vi sai phạm và vấn đề
khiếu kiện của DNTN BK, đồng thời xác định được mục tiêu của doanh
nghiệp, chúng ta cần đi sâu phân tích từ các trường hợp sau:
Trang 11
- Giả sử việc trình bày của bà K.A – Chủ DNTN BK là đúng thực tế,
tức là bà chỉ làm trung gian môi giới để được hưởng hoa hồng 10 đồng/lít,
còn quan hệ mua bán được thực hiện trực tiếp giữa Công ty TM YK với
khách mua hàng, thì hành vi của doanh nghiệp cũng đã vi phạm Luật thuế do
không ghi chép sổ sách thể hiện doanh thu hoạt động môi giới của đơn vị và
không thực hiện kê khai nộp thuế đối với phần doanh thu này.
Ngoài ra trong trường hợp này, hành vi của Công ty TM YK cũng là
hành vi vi phạm pháp luật, vì chúng ta biết rằng các cơ sở kinh doanh mặt
hàng xăng dầu đều phải có Giấy phép kinh doanh đặc biệt, do đó có thể
người mua thứ ba là người kinh doanh trái phép, nên để đảm bảo thủ tục
giấy tờ khi hàng lưu thông trên đường, Công ty TM YK phải thông qua
DNTN BK để xuất hoá đơn.
- Trường hợp DNTN BK thực hiện hành vi mua bán “tay ba”, tức là
mua hàng và xuất bán thẳng cho người mua, không theo dõi trên sổ sách,
không kê khai nộp thuế thì rõ ràng đây là hành vi man khai trốn thuế của
doanh nghiệp.
Như vậy, với những lý luận và phân tích nêu trên, ta có thể kết luận
rằng trong bất kỳ trường hợp nào, hành vi của DNTN Xăng dầu BK đều
nhằm mục đích là trốn tránh nghĩa vụ nộp thuế của mình.
Việc doanh nghiệp khiếu kiện liên tục qua nhiều cấp là nhằm cố tình
dây dưa, kéo dài thời gian chấp hành Quyết định xử lý của cơ quan thuế, vì
tại các phiên toà hành chính, doanh nghiệp hoàn toàn không đưa ra một căn
cứ hợp pháp nào để chứng minh hành vi của doanh nghiệp là không vi phạm
pháp luật.
2. Mục tiêu của Cục thuế TP HN:
Xử lý các hành vi vi phạm về thuế của cơ quan thuế nói riêng và của
các cơ quan chức năng nói chung là nhằm tăng cường tính thực thi pháp luật
về thuế của Nhà nước, thực hiện sự công bằng cho mọi đối tượng có tham
gia hoạt động sản xuất kinh doanh về nghĩa vụ nộp thuế, đồng thời đảm bảo
thu đúng, thu đủ, thu kịp thời tiền thuế vào Ngân sách Nhà nước.
Trang 12
Trong tình huống này, việc xử lý của Cục thuế TP HN là nhằm thực
hiện đúng chức năng, nhiệm vụ của cơ quan quản lý Nhà nước trong lĩnh
vực thuế, nhằm tạo sự cạnh tranh lành mạnh giữa các doanh nghiệp kinh
doanh cùng ngành nghề, đảm bảo tính công bằng, tạo điều kiện cho việc
thực hiện nhiệm vụ thu Ngân sách trên địa bàn được cấp trên giao.
Việc tính, truy thu thuế GTGT, thuế TNDN và xử phạt 01 lần thuế đối
với DNTN BK được thực hiện đúng quy định tại các Luật thuế. Trước hết
tính và thu đủ số thuế mà DNTN BK phải nộp theo đúng doanh thu thực tế
phát sinh tại đơn vị và hành vi trốn thuế của đơn vị phải bị xử lý nhằm chấn
chỉnh đơn vị trong việc chấp hành pháp luật của Nhà nước, bên cạnh đó
Quyết định xử lý này còn có tác dụng răn đe và phòng ngừa các hành vi vi
phạm xảy ra, đồng thời khuyến khích các đơn vị kinh doanh chính đáng, làm
tròn nghĩa vụ của mình với NSNN.
III. PHÂN TÍCH NGUYÊN NHÂN VÀ HẬU QUẢ CỦA SỰ VIỆC TRONG
TÌNH HUỐNG:
1. Nguyên nhân:
- Nguyên nhân khách quan là do lĩnh vực kinh tế ngoài quốc doanh có
khối lượng đối tượng tham gia hoạt động sản xuất kinh doanh rất lớn, qui
mô kinh doanh đa số là nhỏ và tản rộng trên địa bàn, trình độ văn hoá
thường là thấp, trình độ quản lý, ý thức chấp hành pháp luật còn yếu kém,
bên cạnh đó lực lượng làm công tác quản lý về thuế còn quá mỏng, công tác
tuyên truyền, giáo dục phổ biến pháp luật về thuế chưa được tổ chức thực
hiện một cách có hiệu quả.
- Về phía cơ quan thuế: Chưa có sự phối hợp chặt chẽ với các cấp các
ngành có liên quan ở địa phương trong việc quản lý đối tượng kinh doanh,
quản lý doanh số, chi phí… đã để doanh nghiệp lợi dụng kinh doanh không
khai báo, bán hàng không xuất hoá đơn.
- Thực hiện qui trình đổi mới trong công tác thu thuế theo hướng nâng
cao ý thức tự giác của các đối tượng nộp thuế, giảm dần sự quản lý trực tiếp
Trang 13
của cơ quan thuế, xoá bỏ hẳn chế độ chuyên quản là một trong những việc
làm cần thiết trong công cuộc cải cách chính sách thuế của nước ta hiện nay,
tuy bước đầu đã đem lại một số hiệu quả khả quan, hạn chế được các biểu
hiện tiêu cực trong đội ngũ cán bộ thuế trong việc thông đồng, tiếp tay cho
việc trốn thuế của các cơ sở kinh doanh, song nếu xét trong điều kiện hiện
nay khi ý thức tự giác của các đối tượng kinh doanh trong việc thực hiện
nghĩa vụ nộp thuế của mình chưa cao, luôn tìm mọi cách, mọi thủ đoạn để
tăng lợi nhuận của mình và trốn tránh nghĩa vụ nộp thuế với Nhà nước, thì
vô hình chung biện pháp này của cơ quan thuế đã tạo một “mảnh đất màu
mỡ” cho các đối tượng thực hiện hành vi trốn thuế của mình.
- Về nguyên nhân cụ thể: Do chủ doanh nghiệp nắm được đặc thù
riêng biệt của loại hình kinh doanh mặt hàng xăng dầu, đó là rất khó kiểm
soát được chính xác lượng hàng mà doanh nghiệp nhập xuất trong kỳ, đối
tượng mua hàng chủ yếu là những cá nhân tiêu dùng trực tiếp cho nhu cầu cá
nhân hoặc là các hộ nông dân, do đó thường không lấy hoá đơn khi mua
hàng, đối tượng mua yêu cầu có hoá đơn thường tập trung vào các đối tượng
có nhu cầu sử dụng làm chứng từ thanh toán như các doanh nghiệp, các cơ
quan Nhà nước nên đã tạo cho doanh nghiệp có tâm lý bán hàng không xuất
hoá đơn để trốn thuế, chỉ kê khai nộp thuế đối với lượng hàng bán có xuất
hoá đơn. Vì đã trốn “đầu ra” nên doanh nghiệp phải tìm cách trốn “đầu vào”.
2. Phân tích hậu quả:
- Qua tình huống trên cho thấy, đối tượng kinh doanh luôn tìm tòi mọi
cách để kinh doanh trốn thuế, biết lợi dụng những “điểm mềm” của Luật
pháp và tận dụng sơ hở của các cơ quan quản lý để thực hiện hành vi của
mình nhằm tăng lợi nhuận trong kinh doanh một cách thiếu chính đáng.
Hành vi kinh doanh trốn thuế của đơn vị không chỉ làm ảnh hưởng đến Ngân
sách Nhà nước mà còn làm xáo trộn thị trường, tình hình cạnh tranh không
lành mạnh giữa các cơ sở kinh doanh trong cùng ngành nghề sẽ diễn ra, tạo
sự mất công bằng trong việc thi hành nghĩa vụ nộp thuế.
Trang 14

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét