Chủ Nhật, 23 tháng 2, 2014

XÂY DỰNG ĐỜI SỐNG VĂN HÓA ĐỒNG BÀO DÂN TỘC KHMER TỈNH SÓC TRĂNG HIỆN NAY – THỰC TRẠNG VÀGIẢI PHÁP


được các giá trị, niềm tin, ngôn ngữ, luật pháp và kỹ thuật của các thành viên sống
trong một xã hội nhất định nào đó (P.T Côn và Tlobiu). Có người lại định nghĩa văn
hóa là một hệ thống các khuôn mẫu và chuẩn mực được soạn thảo (tức là được ghi
lại hình thức này hay hình thức khác trong các tập thể) về hành vi, hoạt động, giao
tiếp và tương tác của con người, có chức năng điều tiết và khống chế trong tập thể
lớn (T.M.Đritdơ) [ 19, tr 94]
Qua các định nghĩa về văn hóa, ta thấy tuy có nhiều điểm riêng theo từng góc
độ của nhà nghiên cứu, nhưng khái quát lại giữa chúng có những điểm chung như:
+ Văn hóa là một trong những mặt cơ bản của đời sống xã hội
+ Là một hệ thống (các giá trị, các cơ cấu, kỹ thuật, thể chế các tư tưởng…)
được hình thành trong quá trình hoạt động sáng tạo của con người, được bảo tồn và
truyền lại cho các thế hệ sau.
+ Hệ thống văn hóa có chức năng như một khuôn mẫu chuẩn mực quy định
các hành vi xã hội. Mỗi cá nhân muốn trở thành con người xã hội, muốn hòa nhập
vào cộng đồng xã hội thì phải tiếp thu, tuân thủ theo các chuẩn mực đó. Về phương
diện này có thể coi văn hóa của xã hội là mục tiêu của quá trình xã hội hóa cá nhân
và nhóm.
Khái niệm văn hóa là khái niệm rất phức tạp. Không ít khái niệm người ta
đồng nhất văn hóa với khái niệm học vấn. Sự đồng nhất này có khi được biểu hiện
trên các văn bản có tính pháp quy. Ví dụ: trong mẫu các bản khai lý lịch có mục
trình độ văn hóa mà thực chất là trình độ học vấn, tuy nhiên cũng có người đạt trình
độ học vấn cao nhưng trong lối sống, cách ứng xử, trong quan hệ xã hội, vẫn cứ bị
coi là thiếu văn hóa.
Pufendorf - nhà khoa học Đức cho rằng: Văn hóa là toàn bộ những gì được
tạo ra do hoạt động xã hội, nghĩa là văn hóa đối lập với trạng thái tự nhiên. Tiếp tục
ý tưởng đó, nhà triết học Đức Herder cho rằng: Con người xuất hiện với tư cách
một thực thể tự nhiên, đến lần thứ hai con người hình thành và phát triển với tư cách
một thực thể xã hội, tức là một nhân cách văn hóa.

E.B Tay lor đưa một khái niệm hiện đại về văn hóa: Văn hóa là một tổng thể
phức tạp, bao gồm trí thức tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức, luật pháp, phong tục tập
quán và thói quen mà con người đạt được trong xã hội.
Trong nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII của Đảng ta khẳng định: phải xây
dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Đến đại
hội IX một lần nữa nhấn mạnh “Tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển văn hóa,
giáo dục, xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc làm cho chủ
nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh
thần của nhân dân”
Khái niệm văn hóa của UNESCO hướng vào cái cơ nhất và chung nhất. Ở
đây, văn hóa được định nghĩa: Văn hóa là tất cả những gì làm cho dân tộc này khác
với dân tộc khác, từ những sản phẩm tinh vi nhất đến tín ngưỡng, phong tục, tập
quán, lối sống và lao động, nhờ đó con người tự định vị mình trong không gian và
thời gian nhất định để có thể giải thích thế giới, phát triển các năng lực biểu hiện
giao lưu sáng tạo.
Phạm vi của văn hóa hết sức rộng lớn, nhưng quan trọng hơn cả, nó là những
giá trị do hoạt động tinh thần - sáng tạo của con người tạo ra, biểu hiện trình độ hiểu
biết, thước đo trình độ phát triển và sự vươn lên tự hoàn thiện của con người theo lý
tưởng chân, thiện, mỹ.
Phạm Văn Đồng - nhà văn hóa lớn của đất nước thế kỷ XX cho rằng: Nói tới
văn hóa là nói tới một lĩnh vực vô cùng phong phú và rộng lớn bao gồm tất những
gì không phải là thiên nhiên có liên quan đến con người trong quá trình tồn tại, phát
triển, quá trình con người làm nên lịch sử…“Cốt lõi của sức sống dân tộc là văn
hóa với nghĩa bao quát và cao đẹp nhất của nó, bao gồm cả một hệ thống giá trị: tư
tưởng và tình cảm, đạo đức và phẩm chất, trí tuệ và tài năng, sức nhạy cảm tiếp thu
cái mới từ bên ngoài, ý thức bảo vệ bản lĩnh và bản sắc của cộng đồng dân tộc, sức
đề kháng và sức chiến đấu tự bảo vệ mình và không ngừng lớn mạnh”.
Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm
đà bản sắc dân tộc

Trong nhiều tác phẩm Mác - Ănghen, đã có những dự báo khoa học và nhận
định về những tính chất của nền văn hóa tất cả vì con người và khả năng xây dựng
con người hoàn thiện. Nền văn hóa mới sẽ trả lại cho con người những giá trị tinh
thần vốn có và tất cả những yếu tố tích cực ấy sẽ được phát huy trong xã hội mới.
Sau cách mạng tháng Mười Nga thành công, Lênin đã đưa ra luận điểm có tính chất
cương lĩnh về xây dựng nền văn hóa mới, trong đó có tiếp thu di sản văn hóa quá
khứ và những nguyên tắc xây dựng nền văn hóa vô sản, đã phát họa ra cưỡng lĩnh
của nền văn hóa mới và bắt tay vào hiện thực trong thực tế của nước Xô-Viết.
Mác –Ănghen chỉ ra rằng tư tưởng thống trị một thời đại, tư tưởng của giai
cấp thống trị. Trên cơ sở luận điểm đó, Lênin phát hiện mặt thứ hai của vấn đề dựa
trên cuộc đấu tranh của quần chúng lao động chống lại giai cấp thống trị bóc lột.
Cuộc đấu tranh đó tất yếu sản sinh ra một dòng “văn hóa thứ hai” biểu hiện trực tiếp
tư tưởng, tình cảm và lợi ích của quần chúng lao động. Đây là cơ sở để tạo nên mọi
giá trị tinh thần của truyền thống văn hóa dân tộc. Lênin nhận xét “Mỗi nền văn hóa
dân tộc đều có những thành phần thậm chí không phát triển của nền văn hóa dân
chủ và xã hội chủ nghĩa, vì trong mọi dân tộc đều có quần chúng lao động bị bóc lột
và điều kiện sinh sống của họ nhất định phải sản sinh ra một hệ tư tưởng dân chủ và
xã hội chủ nghĩa”.
Lênin nêu lên nhiệm vụ của văn hóa mới phải xây dựng những con người
của thời đại mới, có giác ngộ cách mạng và có trình độ văn hóa cao. Ngành văn hóa
cách mạng phải đi vào những mũi nhọn của cuộc đấu tranh, góp phần giải quyết
những vấn đề khó khăn đặt ra trong cuộc sống, phải chống lại âm mưu phá hoại của
kẻ thù và không thể có sự thỏa hiệp trên trận địa đấu tranh tư tưởng. Lênin cho rằng,
văn nghệ sĩ không được lạc hậu, phải đi trước cuộc sống một bước, phải bắt rễ sâu
trong quần chúng và phản ánh những mặt tiêu biểu của cách mạng. Lênin nói “Nghệ
thuật của nhân dân nó phải bắt rễ hết sức sâu xa trong quảng đại quần chúng lao
động. Nó phải được quần chúng hiểu và được ưa thích, nó phải liên hợp được tình
cảm và ý chí của những quần chúng ấy, nâng lên một trình độ cao hơn”
Xây dựng nền văn hóa mới tiên tiến có tính chất xã hội chủ nghĩa thấm
nhuần nội dung và hình thức dân tộc, gắn với những yêu cầu của thời đại mới, thời

đại quá độ lên chủ nghĩa xã hội là nhiệm vụ đồng thời là mục tiêu quan trọng của
cách mạng tư tưởng và văn hóa. Nền văn hóa vô sản, văn hóa xã hội chủ nghĩa.
Lênin gọi, kết hợp được truyền thống với hiện đại, vừa giữ gìn và phát huy được
bản sắc tinh hoa của dân tộc, vừa kế thừa được những thành quả tốt đẹp, ưu tú nhất
của văn hóa nhân loại qua các thời kỳ lịch sử. Một mặt, phải sáng tạo ra một nền
văn hóa phong phú, đa dạng và hiện đại; mặt khác phải làm cho giai cấp công nhân
và quần chúng lao động tham gia tích cực vào quá trình sáng tạo văn hóa, trở thành
chủ thể sản xuất tiêu dùng và cảm thụ các giá trị văn hóa nghệ thuật, xây dựng mặt
trận văn hóa lành mạnh.
Tiên tiến là yêu nước và tiến bộ - nội dung cốt lõi là lý tưởng độc lập dân tộc
và chủ nghĩa Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, nhằm mục tiêu tất cả vì con
người, vì hạnh phúc tự do phát triển toàn diện của nhân dân, xây dựng mối quan hệ
hài hòa giữa cá nhân và cộng đồng, giữa xã hội và tự nhiên.
Những quan điểm của Đảng ta về xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc được hình thành và phát triển trong quá trình thực tiễn lãnh đạo, chỉ
đạo xây dựng nền văn hóa cách mạng của dân tộc ta từ 1930 đến nay. Quan điểm
nhất quán xuyên suốt toàn bộ tiến trình lãnh đạo văn hóa của Đảng từ năm 1930 đến
nay luôn khẳng định văn hóa, văn nghệ là bộ phận khắng khít và gắn bó với đời
sống nhân dân.
“Đề cương văn hóa Việt Nam” (1943) xác định: “Văn hóa gồm tất cả tư
tưởng, văn học, nghệ thuật”, văn hóa là một trong ba mặt trận: kinh tế, chính trị và
văn hóa; ba phương châm của văn hóa là dân tộc, khoa học, đại chúng. Đây là kim
chỉ nam cho việc xây dựng văn hóa mới. Năm 1946, tại Đại hội văn hóa toàn quốc
lần I Bác Hồ nói: Văn hóa phải soi đường cho quốc dân đi
Đến Đại hội III của Đảng (1960) đã chỉ ra sự cần thiết phải tiến hành cách
mạng tư tưởng, văn hóa đồng thời với cách mạng kỹ thuật và cách mạng trong quan
hệ sản xuất. Đại hội IV (1976) và Đại hội V (1981) tiếp tục xác định một trong
những nhiệm vụ trọng tâm của toàn Đảng, toàn dân trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội là xây dựng nền văn hóa có nội dung xã hội chủ nghĩa, có hình thức
dân tộc, có tính Đảng và nhân dân.

Đại hội VI của Đảng (1986) nhấn mạnh: Không có hình thái tư tưởng nào có
thể thay thế được văn học, nghệ thuật trong việc xây dựng tính cách lành mạnh, tác
động sâu sắc vào việc đổi mới nếp suy nghĩ, lẽ sống của con người.
Đại hội VII (1991) thông qua cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội, trong đó chỉ rõ: xã hội chúng ta xây dựng có một đặc
trưng là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Nghị quyết Trung ương 4
khóa VII lần đầu tiên khẳng định: Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, một
động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội, đồng thời là mục tiêu của chủ nghĩa
xã hội.
Trong Nghị quyết hội nghị lần thứ 5 Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa
VIII đã khẳng định văn hóa Việt Nam là thành quả nghìn năm lao động, sáng tạo,
đấu tranh kiên cường dựng nước và giữ nước của cộng đồng các dân tộc Việt Nam,
là kết quả giao lưu và tiếp thu tinh hoa của nền văn minh thế giới để không ngừng
hoàn thiện mình. Văn hóa Việt Nam đã hun đúc nên tâm hồn, khí phách, bản lĩnh
Việt Nam, làm rạng rỡ lịch sử vẻ vang của dân tộc. Nghị quyết còn khẳng định:
Phải xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc. Đến Đại hội IX, Đảng ta một lần nữa nhấn mạnh: “Tăng trưởng kinh tế đi đôi
với phát triển văn hóa và giáo dục, xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm
đà bản sắc dân tộc, làm cho chủ nghĩa Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vai
trò chủ đạo trong đời sống của nhân dân…”
Xây dựng và phát triển nền văn hóa là sự nghiệp của toàn dân do Đảng lãnh
đạo, trong đó đội ngũ trí thức đóng vai trò quan trọng. Nhân dân là lực lượng làm
nên văn hóa trong cả ba khâu chủ yếu của tiến trình văn hóa: sáng tạo, truyền bá và
tiếp nhận. Đảng ta là lực lượng tiên phong về tư tưởng có sứ mệnh lãnh đạo, chỉ đạo
định hướng để nhân dân ta xây dựng văn hóa là vai trò rất quan trọng.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nền văn hóa Việt Nam đậm đà bản sắc
dân tộc
Văn hóa theo nghĩa rộng nhất - đó là toàn bộ những giá trị vật chất và tinh
thần do loài người sáng tạo ra để đáp ứng nhu cầu tồn tại và phát triển của mình
trong tiến trình đi lên của lịch sử. Văn hóa là đặc trưng của toàn bộ đời sống của

loài người. Xây dựng văn hóa là xây dựng tất cả các mặt của đời sống xã hội và
quan tâm đến trình độ phát triển của con người [9, tr 155].
Văn hóa được hiểu theo nghĩa hẹp hơn - đó là những giá trị tinh thần, là đời
sống tinh thần của xã hội như đạo đức, tín ngưỡng, tôn giáo, thẩm mỹ, tâm linh,
nghệ thuật…Như vậy, văn hóa chỉ là một mặt chứ không phải toàn bộ đời sống xã
hội của loài người.
Văn hóa còn được hiểu theo nghĩa hẹp nhất, thường dùng hằng ngày - đó là
trình độ học vấn của con người.
Về văn hóa, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục
đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết,
đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho
sinh hoạt hàng ngày về mặc, ở và phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và
phát minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là sự tổng hợp mọi phương thức sinh hoạt,
cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm mục đích thích ứng
với nhu cầu đời sống và đòi hỏi sinh tồn” [19, tr 95].
Như vậy, ta thấy quan niệm về văn hóa của Chủ tịch Hồ Chí Minh mang tính
khái quát cao, đồng thời cũng khá tương đồng với định nghĩa văn hóa của Tổng thư
ký UNESCO Federico Mayor. Có thể thống nhất định nghĩa văn hóa theo định
nghĩa của Tổng thư ký UNESCO Federico Mayor: Văn hóa là tổng thể sống động
các hoạt động sáng tạo (của các cá nhân và các cộng đồng) trong quá khứ và hiện
tại. Qua các thế kỷ hoạt động sáng tạo ấy đã hình thành nên hệ thống các giá trị, các
truyền thống và thị hiếu - những yếu tố xác định đặc tính riêng của mỗi dân tộc.
Có thể nói rằng, xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm
đà bản sắc dân tộc là một bộ phận quan trọng của sự nghiệp cách mạng xã hội chủ
nghĩa nước ta, đòi hỏi ý chí cách mạng kiên định, trình độ trí tuệ và tính tự giác cao.
Mỗi cán bộ đảng viên cần nêu cao vai trò cán bộ gương mẫu của người cộng sản,
động viên nhân dân thực hiện thắng lợi theo Nghị quyết của Đảng và Bác Hồ:
“Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội trước hết phải có con người xã hội chủ nghĩa”.
Toàn Đảng, toàn dân phấn đấu để tổ quốc ta mãi là quốc gia văn hiến, dân tộc ta

không ngừng phát triển, xứng đáng với tầm vóc dân tộc trong lịch sử và trong thế
giới hiện đại ngày nay.
1.2 Vai trò của văn hóa
Cũng như mọi sinh thể khác, con người là một yếu tố trong vũ trụ, chịu sự
quy định chặt chẽ những điều kiện môi trường sống xung quanh. Nhưng khác với
mọi sinh thể khác, con người lại sống trong một trật tự xã hội với những thiết chế
nhất định, với những khả năng hoạt động sáng tạo nhất định, hay nói cách khác là
có văn hóa. Nếu giới tự nhiên là cái nôi đầu tiên nuôi sống con người, thì văn hóa là
cái nôi thứ hai, mà ở đó toàn bộ đời sống tinh thần của con người được hình thành,
được nuôi dưỡng và phát triển. Con người không thể tồn tại nếu tách rời môi trường
tự nhiên, cũng như con người không thể thực sự là con người nếu tách khỏi môi
trường xã hội hay môi trường văn hóa.
Vì văn hóa là sự phát huy các năng lực bản chất con người, là sự thể hiện đầy
đủ nhất chất người nên dù đó là các hoạt động trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã
hội hay trong cách cư xử…Ngày nay, trong ngôn ngữ xã hội, người ta sử dụng khá
phổ biến các khái niệm có liên quan đến văn hóa như: văn hóa chính trị, văn hóa
ứng xử, văn hóa giao tiếp, văn hóa giáo dục, văn hóa lao động, văn hóa gia đình,
văn hóa thẩm mỹ, văn hóa nghệ thuật…Lẽ dĩ nhiên điều đó không loại trừ sự tồn tại
những lĩnh vực hoạt động riêng của văn hóa, nghĩa là những hoạt động không thuộc
lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội… Hoạt động văn hóa là hoạt động sản xuất ra các
giá trị tinh thần hoặc vật chất chứa đựng những giá trị tinh thần, nhằm giáo dục con
người khát vọng hướng tới cái chân, thiện, mỹ và khả năng sáng tạo ra cái chân,
thiện, mỹ trong đời sống. Do đó, có thể nói văn hóa là động lực cho sự phát triển
của mỗi dân tộc cũng như của toàn nhân loại. Đồng thời, văn hóa còn là nền tảng
tinh thần của mọi xã hội.
Nói đến con người là nói đến văn hóa, vì toàn bộ các giá trị văn hóa làm nên
những phẩm chất, những năng lực tinh thần của con người. Những phẩm chất và
năng lực đó, được vật chất hóa trong quá trình sản xuất. Đổi mới tư duy kinh tế của
nước ta là một thành tựu về văn hóa. Thành tựu đó đã thúc đẩy kinh tế đất nước
vượt qua sự khủng hoảng, đình trệ và vươn đến sự phát triển.

Gần đây, trong lĩnh vực kinh doanh đã xuất hiện khái niệm tài sản vô hình.
Tài sản vô hình bao gồm các yếu tố chính như: Thông tin và khoa học - kỹ thuật, tổ
chức bộ máy và nghệ thuật quản lý, sự tín nhiệm của khác hàng đối với công ty và
sản phẩm…Các tài sản vô hình đó là sự chuyển hóa các năng lượng tinh thần của
con người vào hoạt động kinh doanh. Đó chính là văn hóa. Thế giới đã có ý thức sử
dụng văn hóa như một động lực phát triển kinh tế. Một văn kiện của Vatican ra đời
năm 1972 trong phần nói về đời sống kinh tế của xã hội có viết: “Con người là tác
giả, tâm điểm và là cứu cánh của tất cả đời sống của xã hội…Trong thời đại mà sự
phát triển kinh tế, nếu được điều khiển và phối hợp một cách hợp lý và nhân đạo, có
thể giảm được những chênh lệch trong xã hội thì nhiều khi lại làm cho những chênh
lệch hoặc ở các nơi còn trở thành sự thoái hóa địa vị xã hội của những người yếu
thế và miệt thị những người nghèo túng…” [19, tr 99].
Khả năng phát triển của trí tuệ, của khoa học và kỹ thuật là điều kiện giải
phóng và phát triển con người. Nhưng sự phát triển của trí tuệ, của khoa học - kỹ
thuật cũng có khả năng ngược lại. Vấn đề là sử dụng trí tuệ và khoa học kỹ thuật
vào mục đích gì. Nghịch lý những thời kỳ lịch sử đã qua, lý trí và khoa học càng
phát triển thì lương tâm, đạo đức của con người càng suy thoái. Đúng như nhà triết
học Rabelais nói “Khoa học mà không có lương tâm thì chỉ làm bại hoại tâm hồn”.
Federico Mayor cũng nhận xét: “Chưa bao giờ như ngày nay, sự căng thẳng giữa
khoa học và lương tâm, giữa kỹ thuật và đạo đức lên đến cực điểm đã trở thành mối
đe dọa toàn thế giới”.
Điều này dẫn các nhà lý luận đến một quan niệm, văn hóa phải là mục tiêu
của phát triển kinh tế cũng có nghĩa là phát triển kinh tế phải hướng vào phát triển
và hoàn thiện con người, hướng vào phát triển hoàn thiện xã hội. Từ đó, nhân loại
đang đi tới một lý thuyết về sự phát triển. Nhận thức mới về sự phát triển không
dừng lại ở các chỉ tiêu kinh tế. Phấn đấu cho các chỉ tiêu là cần thiết để đảm bảo sự
tồn tại của con người, đáp ứng nhu cầu về vật chất (ăn, ở, mặc, đi lại…), những sự
phấn đấu có thể là nguyên nhân tạo nên sự bất bình đẳng trong thu nhập và hưởng
thụ, có thể dẫn đến lối sống không lành mạnh, ích kỷ, thực dụng, coi thường nhân
cách và trí tuệ…Vì vậy, sau các chỉ tiêu kinh tế, người ta phải quan tâm đến hàng

loạt các chỉ tiêu khác như: tuổi thọ trung bình, trình độ học vấn chung của xã hội, tỷ
lệ người có công ăn việc làm, môi trường xã hội lành mạnh, môi trường tự nhiên
trong sạch…
Định hướng của thế giới hiện đại là khởi động sức sống của văn hóa để phát
triển và hội nhập, để cân bằng với tiến trình văn minh. Vì vậy, văn hóa ngày nay
càng chứng tỏ vai trò tiên quyết của mình, nó không còn được xem đơn thuần như
một thứ hoa lá trang trí cho cỗ máy đại công nghiệp, ngược lại nó được coi là cái
“chốt an toàn”, là “chìa khóa” và “động lực” của sự phát triển như lời kêu gọi của
UNESCO khi phát động “thập kỷ phát triển văn hóa thế giới” trước ngưỡng cửa thế
kỷ XXI [19, tr 101]. Như vậy, văn hóa vừa là động lực, vừa là mục tiêu của sự phát
triển, đang trở thành vấn đề lý luận và thực tiễn có tính thời đại. Đó là hành trang
chung của mọi quốc gia để bước vào kỷ nguyên mới.








Chương 2
THỰC TRẠNG XÂY DỰNG ĐỜI SỐNG VĂN HÓA ĐỒNG BÀO DÂN
TỘC KHMER TỈNH SÓC TRĂNG
2.1 Đặc điểm chung về đời sống văn hóa của dân tộc Khmer Sóc Trăng
2.1.1 Sơ lược vài nét đời sống văn hóa của đồng bào dân tộc Khmer
Đồng bào dân tộc Khmer - một trong những dân tộc thiểu số ở nước ta, có
mặt khá sớm ở khu vực Tây Nam Bộ nói chung và trên địa bàn tỉnh Sóc Trăng nói
riêng. Nhiều địa danh ở Sóc Trăng đến nay hãy còn mang dấu vết cư trú xa xưa của
người Khmer.
Về nơi ở của đồng bào dân tộc Khmer Sóc Trăng
Đồng bào dân tộc Khmer phần lớn sống tập trung ở nông thôn, trên đầu
giồng, họ trồng hoa màu trên đất rẫy (chăm ca); trồng lúa trên đất ruộng (Srê). Họ
sống thành từng cụm gọi là phum (tương đương với xóm của người Kinh), trước kia
mỗi phum từ năm đến sáu mươi nóc nhà. Cụm dân cư đông hơn gọi là Sróc (người
Kinh gọi là sóc) gần bằng một xã của người Kinh. Ngay từ thời Nguyễn những cụm
dân cư người Khmer đã sống xen kẽ với người Kinh, Hoa, nên phum và sóc đã
được hợp thức hóa vào những tổ chức cộng cư của người Việt.
Ngày nay, nhà ở của người Khmer xét về hình dáng, vật liệu, kiến trúc cũng
gần giống nhà nhười Kinh, Hoa. Đồng bào dân tộc Khmer Sóc Trăng có kinh
nghiệm làm nhà bằng lá dừa nước, dùng nguyên tàu lá dừa xé dọc làm hai, khi lợp
sẽ xếp chồng lên nhau gọi là một đôi. Ngoài ra, họ còn sử dụng một số vật liệu khác
như: đước, tràm, bạch đằng, gỗ tre, lá (những người giàu có thì xây bằng gạch nung,
gỗ quí, lợp mái ngói…) Họ dựng vách bằng lá dừa nước, thông thường lá ở bên
ngoài, sống lá bên trong, nhưng cũng có một cách dựng vách khác là đâu sống vào
nhau, lá được ém kín ở bên trong rất đẹp. Người Khmer có các loại nhà: nhà một
gian, hai gian, ba gian hoặc nhà có mái hiên…Nhà một gian có hai cột cái, một đòn
dông nối với bốn cột con bằng hai hàng vì kèo, cứ như thế hai gian có ba cột cái, ba
hàng vì kèo, ba gian thì bốn cột cái và bốn hàng vì kèo…khi cất nhà ngươi Khmer
có tập quán rất tốt, họ luân phiên phụ giúp nhau gọi là vần công cất nhà.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét