Thứ Ba, 25 tháng 2, 2014

các biện pháp hạn chế nhập khẩu của Nhật Bản và giải pháp thích ứng của hàng nông sản Việt Nam

Lời mở đầu
1. Tính tất yếu của đề án:
Trong những năm gần đây, quan hệ hợp tác toàn diện giữa Việt Nam và Nhật Bản
ngày càng trở nên tốt đẹp, đánh dấu bằng những chuyến thăm chính thức lẫn nhau của
lãnh đạo cấp cao hai nước như chuyến thăm chính thức Nhật Bản của thủ tướng Việt
Nam vào tháng 4 và tháng 12 năm 2003 đã nâng quan hệ giữa Việt Nam và Nhật Bản
lên một tầm cao mới theo phương châm “đối tác tin cậy, ổn định, lâu dài”. Chuyến
thăm này cũng là cơ sở để hình thành Sáng kiến chung Việt - Nhật, trong đó có Kế
hoạch hành động gầm 44 hạng mục với những cam kết cụ thể của hai Chính Phủ về
những biện pháp nhằm cải thiện môi trường kinh doanh của Việt Nam. Được thực hiện
thông qua việc rà soát, hoàn thiện các quy định về đầu tư, cải thiện các thể chế liên
quan đến đầu tư và cải thiện cơ sở hạ tầng. Đến tháng 10 năm 2006, Thủ tướng Nguyễn
Tấn Dũng đã sang thăm chính thức Nhật Bản. Thủ tưóng hai nước đã ký Tuyên bố
chung Việt - Nhật, nâng tầm quan hệ hai nước hướng tới quan hệ đối tác chiến lược vì
hoà bình và phồn vinh ở Châu Á, cả hai thủ tướng đều nhất trí phấn đấu kim ngạch
thương mại hai chiều sẽ đạt 15 tỷ USD vào năm 2015.
Nhật Bản là nền kinh tế lớn thứ 2 trên thế giới và cũng là một thị trường lớn với dân
số vào khoảng 128 triệu, có sức tiêu thụ rất lớn. Trong những năm gần đây, kim ngạch
nhập khẩu của Nhật Bản ngày càng tăng: năm 2001 đạt 351 tỷ USD, năm 2004 đạt 454
tỷ USD và năm 2007 là 621 tỷ USD trong đó nông thuỷ sản, thực phẩm chiếm 51 tỷ
USD ( 8,3% tổng kim ngạch xuất khẩu ). Vào năm 2007, kim ngạch xuất khẩu của Việt
Nam sang Nhật Bản đạt 6,608 tỷ USD và Nhật Bản tiếp tục là thị trường xuất khẩu lớn
thứ 2 của Việt Nam sau Hoa Kỳ. Từ số liệu nêu trên có thể thấy Việt Nam mới chỉ
chiếm một thị phần rất nhỏ tại thị trường Nhật Bản ( 1% tổng kim ngạch nhập khẩu của
Nhật Bản ). Trong khi đó, thị phần của Trung Quốc là 20,5%, Thái Lan 2,94%,
Malaixia 2,8%. Từ thực tiễn đó đòi hỏi chúng ta cần phải nghiên cứu thị trường Nhật
Bản một cách sâu sắc hơn và đưa ra được những giải pháp nhằm thúc đẩy hơn nữa giá
trị xuất khẩu của hàng hoá Việt Nam sang thị trường Nhật Bản.
Các mặt hàng có thế mạnh của Việt Nam khi xuất khẩu vào thị trường Nhật Bản đó
là nông thuỷ sản, đồ gỗ, hàng dệt may, đồ thủ công mỹ nghệ. Trong đó thì nông sản
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel : 0918.775.368
đóng một vai trò rất quan trọng. Các mặt hàng nông sản của Việt Nam cũng đang tạo
đựơc uy tín và vị trí tại thị trường Nhật Bản. Tuy nhiên kim ngạch xuất khẩu còn thấp
và còn nhiều vấn đề cần giải quyết. Chính vì vậy, em đã chọn đề tài “ các biện pháp
hạn chế nhập khẩu của Nhật Bản và giải pháp thích ứng của hàng nông sản Việt
Nam” với mong muốn tìm hiểu về vấn đề này rõ ràng hơn.
2. Mục đích:
- Làm rõ xu hướng và đặc điểm nhập khẩu nông sản của Nhật Bản trên các phương
diện: nhu cầu, thị hiếu của thị trường, những rào cản nhằm hạn chế nhập khẩu của Nhật
Bản.
- Đánh giá thực trạng xuất khẩu hàng nông sản của Việt Nam sang thị trường Nhật
Bản.
- Đề xuất những giải pháp nhằm giúp hàng nông sản của Việt Nam có thể thích nghi
với các rào cản của thị trường Nhật Bản và đẩy mạnh xuất khẩu.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Đối tượng: Nghiên cứu về các biện pháp hạn chế xuất khẩu để bảo hộ nền sản xuất
trong nước và bảo vệ người tiêu dùng của Nhật Bản cùng với những giải pháp nhằm
giúp cho hàng nông sản Việt Nam có thể thích ứng với những rào cản đó.
Phạm vi: Giới hạn về mặt nội dung nghiên cứu là mặt hàng nông sản xuất khẩu sang
thị trường Nhật Bản với các sản phẩm chính là cà phê, cao su và rau quả.
4. Phương pháp nghiên cứu:
So sánh, phân tích, tổng hợp số liệu thống kê, báo cáo thực tiễn.
5. Kết cấu đề án:
Ngoài phần mở đầu, mục lục và danh sách tài liệu tham khảo, đề án gồm 3 chương :
Chương 1: Những vấn đề chung về các biện pháp hạn chế nhập khẩu và đặc điểm thị
trường Nhật Bản.
Chương 2: Thực trạng xuất khẩu hàng nông sản Việt Nam sang thị trường Nhật Bản
và khả năng thích ứng.
Chương 3: Dự báo và giải pháp tăng khả năng thích ứng của hàng nông sản xuất
khẩu của Việt Nam sang thị trường Nhật Bản.

Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel : 0918.775.368
Chương 1: Những vấn đề chung về các biện pháp hạn chế nhập
khẩu và đặc điểm thị trường Nhật Bản
1.1 Những vấn đề chung về các biện pháp hạn chế nhập khẩu
1.1.1 Các công cụ và biện pháp hạn chế nhập khẩu.
1.1.1.1 Thuế quan
Nhật Bản áp dụng 4 hệ thống thuế như sau :
- Thuế suất chung: mức thuế cơ bản căn cứ vào Luật thuế quan hải quan, áp dụng
trong một thời gian dài.
- Thuế suất tạm thời: là thuế suất trong một thời gian ngắn, thay thế cho thuế suất
chung.
- Thuế suất ưu đãi phổ cập ( GSP): là mức thuế áp dụng cho các nước đang phát
triển hay các khu vực lãnh thổ. Mức thuế có thể thấp hơn mức thuế đang áp dụng cho
các nước phát triển. Hệ thống GSP của Nhật Bản bắt đầu có hiệu lực vào từ ngày
1\8\1971.
- Thuế suất WTO: là mức thuế căn cứ vào cam kết WTO và các hiệp định quốc tế
khác.
Về nguyên tắc, mức thuế áp dụng theo thứ tự mức thuế GSP, mức thuế WTO, mức
thuế tạm thời và mức thuế chung. Tuy nhiên, mức thuế GSP chỉ được áp dụng trong
trường hợp thoả mãn các điều kiện cần thiết mà Nhật Bản đưa ra như : là nước đang
phát triển, là thành viên của hiệp ước Hội nghị Liên hợp quốc về thương mại và phát
triển ( UNCTAD ), là quốc gia mà Nhật Bản cho là thích hợp để hưởng quy chế GSP
Đối với mức thuế WTO, nó chỉ được áp dụng khi thấp hơn cả mức thuế tạm thời và
mức thuế chung. Như vậy, mức thuế chung là mức thuế áp dụng cho các nước không
phải là thành viên của WTO. Trong trường hợp mức thuế tạm thời thấp hơn các mức
thuế trên, nó sẽ được áp dụng.
1.1.1.2 Các biện pháp hạn chế định lượng
Hạn ngạch nhập khẩu.
Tại Nhật Bản, hạn ngạch nhập khẩu được tính toán trên cơ sở dự đoán các nhu cầu
về hàng hóa và khả năng sản xuất của các doanh nghiệp trong nước. Vào đầu và giữa
năm tài chính ( từ tháng 4 năm trước đến tháng 4 năm tiếp theo), Bộ Công nghiệp và
Ngoại Thương ( MITI) Nhật Bản phê chuẩn những mặt hàng nhập khẩu theo quy chế
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel : 0918.775.368
hạn ngạch được ghi rõ trong thông báo nhập khẩu. Trong thông báo hàng năm của MITI
có quy định rõ trình tự các bước để xin hạn ngạch cho một mặt hàng hay một nhóm mặt
hàng. Khi nhập khẩu các mặt hàng có quy định hạn ngạch, nhà nhập khẩu phải xin hạn
ngạch nhập khẩu trước của MITI, thì mới xin được giấy phép của ngân hàng quản lý
ngoại hôi hay của cơ quan quản lý khác.
Hạn ngạch được áp dụng với 3 nhóm hàng sau:
- Các mặt hàng thương mại thuộc kiểm soát của nhà nước, bao gồm vũ khí, rượu,
chất nổ, súng cầm tay và dao, vật liệu hạt nhân, ma tuý và các thực phẩm chịu sự kiểm
soát ( như gạo ).
- Những mặt hàng hạn chế nhập khẩu
- Các loại thực vật và động vật có tên trong Bản phụ lục I của Công ước về thương
mại quốc tế về các loài động vật có nguy cơ tuyệt chủng trong hệ thống động thực
vật(CITES).
Theo các quy định trước đây của Hiệp định chung về thuế quan và mậu dịch GATT
(nay là tổ chức thương mại thế giới WTO) thì các nước thành viên của tổ chức này
không được sử dụng hạn ngạch để tạo rào cản phi thuế quan cản trở buôn bán với các
nước khác. Tuy nhiên, các nước có thể sử dụng hạn ngạch trong một số trường hợp
ngoại lệ như : để bảo hộ nông nghiệp, chống bán phá giá và đảm bảo an toàn tạm thời
trong trường hợp hàng nhập khẩu có thể làm tổn thương các ngành công nghiệp khác.
Hạn ngạch thuế quan
Chế độ hạn ngạch thuế là chế độ, trong đó quy định áp dụng mức thuế bằng không
(0%) hoặc thấp đối với những hàng hoá được nhập khẩu theo đúng số lượng quy định,
nhằm cung cấp với giá hợp lý cho người tiêu dùng. Khi hàng hoá vượt quá số lượng
quy định thì sẽ áp dụng mức thuế cao để bảo vệ các nhà sản xuất trong nước. Chế độ
hạn ngạch nhập khẩu thuế được thiết lập dựa trên quan điểm đảm bảo hài hoà mục tiêu
bảo vệ người tiêu dùng và mục tiêu bảo hộ người sản xuất nội địa. Vì vậy, chính phủ
phải dựa trên cơ sở xem xét cung cầu, thực trạng sản xuất trong nước để đề ra mức thuế
lần một, lần hai và thời gian áp dụng để không cản trở tự do hoá thương mại. Trong
các quy định của GATT/WTO, các nước thành viên không được sử dụng chế dộ hạn
ngạch nhập khẩu, nhưng lại thừa nhận chế độ hạn ngạch thuế với điều kiện không có sự
phân biệt đối xử với từng nước.
Hạn chế xuất khẩu tự nguyện
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel : 0918.775.368
Là một dạng của hạn chế nhập khẩu, là thoả thuận theo đó một nước đồng ý hạn chế
xuất khẩu của mình sang nước khác đối với một mặt hàng xác định, với một mức tối đa.
Các thoả thuận này là tự nguyện chỉ ở mức độ nước xuất khẩu muốn tránh một mối đe
doạ lớn hơn đối với ngoại thương của mình và do đó chọn biện pháp ít thiệt hại hơn.
Tuy nhiên, đây là biện pháp tạm thời và không có hiệu quả. Bởi vì biện pháp này có thể
giúp làm giảm lượng xuất khẩu của một nước nhưng lại bóp méo quá trình tự do ngoại
thương và dẫn đến việc phân phối các nguồn tài nguyên quốc gia và quốc tế một cách
kém hiệu quả. Tại Nhật Bản, vào cuối những năm 50 đã phải thực hiện hạn chế xuất
khẩu tự nguyện đối với các sản phẩm dệt và một số mặt hàng sử dụng nhiều lao động.
Giấy phép nhập khẩu
Hầu hết các mặt hàng nhập khẩu vào Nhật Bản không cần giấy phép của Bộ Công
Nghiệp và Ngoại thương. Nhưng các mặt hàng sau vẫn cần giấy phép nhập khẩu :
- Hàng hoá liệt kê trong thông báo nhập khẩu thực hiện quản lý bằng hạn ngạch.
- Hàng hoá sản xuất hay vận chuyển từ các quốc gia, khu vực quy định trong thông
báo nhập khẩu đòi hỏi phải có giấy phép nhập khẩu.
- Hàng hoá đòi hỏi phương thức thanh toán đặc biệt.
- Hàng hoá cần sự xác nhận của hải quan về nhập khẩu và phải đáp ứng được các
quy định đặc biệt của chính phủ, như các loại vắcxin nghiên cứu.
1.1.1.3 Các biện pháp hành chính kỹ thuật.
Đây là nhóm các biện pháp gián tiếp ngăn cản và giám sát hàng nhập khẩu từ nước
ngoài vào thị trường Nhật Bản. Các biện pháp hành chính kỹ thuật rất phong phú và đa
dạng. Chúng tuỳ thuộc vào chiến lược phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. Tại Nhật
Bản, các biện pháp hành chính được áp dụng rât đa dạng và nó đã hình thành nên một
rào cản rất lớn đối với doanh nghiệp muốn thâm nhập vào thị trường Nhật Bản.
Trong quan hệ ngoại thương, giá cả thường rất quan trọng. Tuy nhiên, tại thị trường
Nhật Bản thì chất lượng của sản phẩm được đặt lên hàng đầu. Ngay cả đối với những
mặt hàng rẻ tiền, hạ giá thì người tiêu dùng Nhật Bản cũng rất quan tâm đến chất lượng
và độ an toàn của mặt hàng đó. Thực tế là là các tiêu chuẩn về chất lượng và độ an toàn
của hàng hoá của Nhật Bản còn cao hơn và chặt chẽ hơn so với yêu cầu thông thường
và các tiêu chuẩn quốc tế. Vì vậy nên các sản phẩm của Nhật Bản thường có chất lượng
cao và dễ tràn ngập vào các thị truờng các nước khác. Các dấu chứng nhận chất lượng
mà Nhật Bản sử dụng có thể kể đến như :
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel : 0918.775.368
Tiêu chuẩn “JIS”
Dấu chứng nhận tiêu chuẩn công nghiệp Nhật Bản “ JIS” là một trong những dấu
được sử dụng rộng rãi nhất ở Nhật Bản. Tiêu chuẩn này dựa trên “luật tiêu chuẩn hoá
công nghiệp” được ban hành vào tháng 6 năm 1949. Dấu JIS được áp dụng cho tất cả
các sản phẩm công nghiệp và khoáng sản, trừ những sản phẩm được áp dụng các tiêu
chuẩn chuyên ngành như dược phẩm, phân hoá học, sợi tơ tằm, thực phẩm và các sản
phẩm nông nghiệp khác được quy định trong luật về tiêu chuẩn hoá và dán nhãn các sản
phẩm nông lâm sản. Các nhà sản xuất trong nước hay nước ngoài muốn được cấp giấy
chứng nhận JIS phải làm đơn xin cấp giấy chứng nhận này. Bộ trưởng bộ Công nghiệp
và ngoại thương có phê đuyệt đơn xin phép cấp JIS cho nhà sản xuất hay không dựa
vào kết luận của Hội đồng thẩm định. Quyết định của Bộ trưởng sẽ được thông báo cho
người nộp đơn. Nếu đơn xin phép được phê duyệt thì sẽ đăng trên Công báo. Thời gian
cần thiết kể từ khi nộp đơn cho đến lúc nhận được quyết định và thông báo là 3 tháng.
Tiêu chuẩn “JAS”
Luật tiêu chuẩn nông nghiệp Nhật Bản được ban hành vào tháng 5 năm 1970. Luật
này quy định các tiêu chuẩn về chất lượng và đóng dấu chất lượng tiêu chuẩn JAS.
Danh sách các sản phẩm được điều chỉnh bởi Luật JAS bao gồm: đồ uống, thực phẩm
chế biến, dầu ăn và mỡ, các nông, lâm thuỷ sản chế biến. Các tiêu chuẩn JAS bao quát
cả sản phẩm được sản xuất trong nước và các sản phẩm nhập khẩu. Tại Nhật Bản việc
sử dụng dấu chứng nhận sản phẩm JAS lên nhãn hiệu sản phẩm là tự nguyện và các nhà
sản xuất cũng như các nhà bán lẻ không bị bắt buộc phải sản xuất hay kinh doanh các
sản phẩm có chất lượng tiêu chuẩn JAS. Tuy nhiên, các quy định về việc ghi nhãn mác
sản phẩm là bắt buộc với những sản phẩm do bộ Nông – Lâm – Ngư nghiệp quy định.
Người tiêu dùng Nhật Bản rất tin tưởng vào chất lượng của các sản phẩm đã được đóng
dấu JAS. Vì vậy, các nhà sản xuất nước ngoài khi xuất khẩu hàng hoá vào Nhật Bản có
được dấu chứng nhận chất lượng JAS sẽ tạo thuận lợi cho việc tiêu thụ hàng hoá của
mình tại đây.
Các dấu chứng nhận chất lượng khác:
Ngoài dấu chứng nhận chất lượng JIS và JAS còn có nhiều loại dấu chứng nhận
khác được sử dụng ở Nhật Bản. Ví dụ, các dấu chứng nhận sau đang được sử dụng tại
Nhật Bản :
Bảng 1.1 Một số dấu chất lượng của Nhật Bản
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel : 0918.775.368
Dấu chất lượng Ý nghĩa Phạm vi áp dụng
Dấu Q
Chất lượng và đo độ đồng
nhất của sản phẩm.
Các loại sản phẩm dệt, bao gồm quần
áo trẻ em, các loại quần áo khác, khăn
trải giường.
Dấu G
Thiết kế, dịch vụ sau khi
bán hàng và chất lượng
Các sản phẩm như máy ảnh, máy móc,
thiết bị, đồ thuỷ tinh, đồ gốm, đồ văn
phòng, đồ nội thất
Dấu S
Độ an toàn (bắt buộc) Hàng hoá dành cho trẻ em, đồ dùng gia
dụng, dụng cụ thể thao.
Dấu SG
Độ an toàn ( bắt buộc) Xe đạp, xe đẩy, nồi áp suất, mũ đi xe
đạp, mũ bóng cháy và các hàng hoá
khác.
Dấu SIF
Các hàng may mặc có chất
lượng tốt
Hàng may mặc như quần áo nam,quần
áo nữ, ô, áo khoác, balô và các sản
phẩm phục vụ cho thể thao
Dấu Len
Các hàng may mặc có chất
lượng tốt.
Sợi len nguyên chất, quần áo len
nguyên chất, đồ len đan.
Nguồn : Nguyễn Hữu Khải, “Hàng rào phi thuế quan trong chính sách thương mại
quốc tế”, trang 155 – 156.
1.1.1.4 Các biện pháp quản lý khác.
Ngoài các tiêu chuẩn chất lượng khắt khe đối với hàng sản xuất trong nước và hàng
nhập khẩu, Nhật Bản còn ban hành nhiều văn bản pháp luật cơ bản điều chình các hàng
hoá mà có thể gây nguy hại đến sức khoẻ, vệ sinh, đạo đức và sự an toàn chung của
người dân Nhật:
Tiêu chuẩn môi trường.
Vấn đề môi trường cũng rất được quan tâm tại Nhật Bản. Cục môi trường Nhật Bản
đang khuyến khích người tiêu dùng sử dụng các sản phẩm không làm hại sinh thái ( kể
cả các sản phẩm trong nước cũng như các sản phẩm nhập khẩu ). Các sản phẩm đạt
được ít nhất một trong các tiêu chuẩn dưới đây sẽ được đóng dấu “Ecomark”:
1. Việc sử dụng sản phẩm đó không gây ô nhiễm tới môi trường hoặc có nhưng ít.
2. Việc sử dụng sản phẩm đó mang lại nhiều lợi ích cho môi trường.
3. Chất thải sau khi sử dụng không gây hại cho môi trường hoặc gây hại ít.
4. Sản phẩm đóng góp đáng kể vào việc bảo vệ môi trường theo các cách khác
không được kể đến ở trên.
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel : 0918.775.368
Ecomark được ban hành năm 1989, và được rất nhiều người Nhật biết đến.
Ecomark không đưa ra các tiêu chuẩn và cũng không nói lên chất lượng cũng như tính
an toàn của sản phẩm. Các công ty nước ngoài có thể xin dấu chứng nhận Ecomark
thông qua các nhà nhập khẩu.
Luật vệ sinh thực phẩm.
Luật vệ sinh thực phẩm ra đời và có hiệu lực từ năm 1947. Luật này áp dụng cho tât
cả các hàng hoá liên quan đến thực phẩm, các gia vị, dụng cụ chứa, các máy móc chế
biến thực phẩm và đồ chơi trẻ em. Hàng sản xuất trong nước và hàng nhập khẩu đều
phải tuân theo những quy định của Luật như nhau. Bộ Y tế và Phúc lợi sẽ chịu trách
nhiệm thực thi và quản lý vệ sinh thực phẩm
Khi xuất hàng sang Nhật Bản, các nhà xuất khẩu nước ngoài phải hiểu được các quy
định về luật pháp phức tạp liên quan đến vấn đề vệ sinh, an toàn thực phẩm. Ví dụ như :
theo quy định thực phẩm sản xuất tại nước xuất xứ phải theo phương pháp phù hợp với
Luật vệ sinh thực phẩm của Nhật Bản. Do đó, đồ uống, chân giò, xúc xích, thịt lợn nuôi
và thịt bò nuôi đưa vào bán tại thị trường Nhật Bản phải được khử trùng ở nhiệt độ theo
quy định sản xuất tại Nhật Bản. Trong nhiều truờng hợp, do thiếu hiểu biết về các quy
định vệ sinh, an toàn thực phẩm nên các sản phẩm của các nhà xuất khẩu bị cấm không
được đưa vào Nhật Bản. Hàng đã dỡ xuống cầu cảng lại bị gửi trả lại do không đáp ứng
được tiêu chuẩn. Điều này đã từng xảy ra với mặt hàng thuỷ sản của Việt Nam. Do
không tìm hiểu các quy định vệ sinh an toàn thực phẩm của Nhật Bản nên hàng thuỷ
sản Việt Nam xuất khẩu vào Nhật Bản có dư lượng kháng sinh vượt quá mức cho phép.
Nhiều lô hàng đã bị trả lại và các đơn hàng tiếp theo đều chịu sự kiểm soát rất gắt gao
của cơ quan quản lý Nhật. Chính vì vậy, đây chính là một rào cản cần nghiên cứu kỹ để
tránh những thiệt hại kinh tế lớn có thể xảy ra.
Luật kiểm dịch thực vật.
Được ban hành nhằm chống lại sự xâm nhập của sâu bệnh và các căn bệnh ở cây
trồng. Trong Luật kiểm dịch quy định rõ các mặt hàng cấm nhập khẩu, các đối tượng
kiểm tra và tổ chức việc kiểm tra rât cụ thể, chặt chẽ. Nếu khi kiểm tra hàng nhập khẩu
mà phát hiện các lô hàng này bị nhiễm bệnh hay sâu hại thì các hàng này bị huỷ bỏ hoặc
trả lại nước xuất khẩu. Đồng thời, việc xuất khẩu các rau quả thực vật bị cấm cho tới
khi nguồn gốc sâu hại, bệnh tật được tìm ra.
Luật chống các bệnh truyền nhiễm
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel : 0918.775.368
Do áp dụng luật này nên Nhật Bản là một trong số ít nước có vật nuôi không mắc
bệnh truyền nhiễm, lây lan qua virus. Nhật cũng là một trong ít nước không có bệnh
dại. Luật chống các bệnh truyền nhiễm được áp dụng với các đối tượng sau:
- Súc vật mong chẻ (gia súc, lợn, cừu, dê…).
- Ngựa.
- Gia cầm và trứng.
- Thỏ và ong mật.
- Xương, thịt, mỡ, máu, da thú, lông chim, móng, gân.
- Xúc xích, chân giò và thịt muối.
Các công cụ và biện pháp hạn chế nhập khẩu được chính phủ Nhật Bản áp dụng có
thể tổng hợp lại như sau :
Bảng 1.2: Công cụ và biện pháp hạn chế nhập khẩu của Nhật Bản
TT Tác
động
Công cụ
Tích cực Hạn chế Áp dụng
1 Thuế quan Bảo hộ cho hàng hoá sản
xuất trong nước. Tăng thu
ngân sách
Làm tăng giá sản phẩm,
người dân ít có cơ hội sử
dụng hàng hoá ngoại
nhập với giá rẻ.
Áp dụng 4 hệ thống
thuế như đã trình bày
ở trên.
2 Hạn ngạch
nhập khẩu
Bảo hộ cho nến sản xuất
trong nước, ngăn chạn sự
xâm nhập của hàng hoá
ngoại nhập.
Gây cản trở mậu dịch tự
do, có thể dẫn đến sự trả
đũa của đối phương.
Sử dụng trong một
số trường hợp như :
bảo hộ nông nghiệp,
chống bán phá giá,
bảo vệ nền sản xuất
trong nước
3 Hạn ngạch
thuế quan
Bảo vệ người tiêu dùng
và bảo hộ sản xuất nội
địa.
Cản trở tự do hoá
thương mại.
Không phân biệt đối
xử với từng quốc gia.
4 Hạn chế xuất
khẩu tự
nguyện
Bảo hộ sản xuất nội địa. Gây ảnh hưởng tới tự do
ngoại thuơng và phân
phôi các nguồn tài
nguyên
Có sự đồng ý của đối
phương.
5 Giấy phép
nhập khẩu
Hạn chế sự xâm nhập của
hàng hoá ngoại nhập.
Áp dụng với một số
mặt hàng đặc thù.
6 Tiêu chuẩn Phân biệt các hàng hoá Thời gian xin giấy phép Áp dụng cho tất cả
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel : 0918.775.368
JIS công nghiệp đã đáp ứng
được chất lượng yêu cầu
của Nhật.
khá lâu, có thể làm mất
thời cơ kinh doanh.
các sản phẩm công
nghiệp và khoáng
sản.
7 Tiêu chuẩn
JAS
Phân biệt các hàng hoá
nông nghiệp đã đáp ứng
đựoc chất lượng yêu cầu
của Nhật
Thời gian xin giấy phép
khá lâu, có thể làm mất
thời cơ kinh doanh.
Áp dụng cho đồ
uống, thực phẩm chế
biến, dầu ăn và mỡ,
các nông, lâm thuỷ
sản chế biến.
8 Các dấu chất
lượng khác
Chứng nhận chất lượng
của hàng hoá.
Áp dụng với các sản
phẩm được liệt kê
trong bảng 1.1
9 Tiêu chuẩn
môi trường
Ngăn chặn các sản phẩm
gây ô nhiễm môi trường.
Không mang tính bắt
buộc.
10 Luật vệ sinh
thực phẩm
Bảo vệ sức khoẻ của
nguời tiêu dùng.
Các quy định rất là phức
tạp, có thể gây nhiều
thiệt hại nếu không tìm
hiểu kỹ.
Áp dụng cho các
hàng hóa liên quan
đến thực phẩm, gia
vị…
11 Luật kiểm
dịch thực vật
Ngăn chặn sự xâm nhập
của sâu bệnh và các căn
bệnh ở cây trồng
Áp dụng cho cây
trồng, các mặt hàng
nông sản.
12 Luật chống
các bệnh
truyền nhiễm
Ngăn chặn sự xâm nhập
của các bệnh truyền
nhiễm từ động vật.
Áp dụng với các
động vật và sản
phẩm thực phẩm từ
động vật.
1.1.2 Chính sách nhập khẩu hàng hoá của Nhật Bản.
Vào đầu những năm 80, Nhật Bản đã tiến hành mở cửa thị trường trong nước qua
việc cắt giảm và bãi bỏ thuế nhập khẩu, nới lỏng các biện pháp hạn chế về số lượng, cải
thiện hệ thống cấp giấy chứng nhận cho hàng hoá nhập khẩu. Tuy nhiên, Nhật Bản vẫn
duy trì nhiều biện pháp hạn chế hoặc cấm nhập khẩu hàng hóa vào thị trường trong
nước. Sự hạn chế này được thể hiện trong các chính sách, các quy định và tiêu chuẩn
của chính phủ cũng như qua việc tạo ra sự khác biệt trong văn hoá kinh doanh. Trong
đó có các vấn đề nổi bật như:
- Thiết lập các tiêu chuẩn riêng của Nhật Bản. Các tiêu chuẩn này còn được coi trọng
hơn các tiêu chuẩn của thế giới. Hàng hoá muốn nhập khẩu vào thị trường Nhật Bản
cần phải đáp ứng đầy đủ các tiêu chuẩn này.
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel : 0918.775.368
- Đòi hỏi chứng minh kinh nghiệm trong thị trường Nhật Bản, đây chính là một rào
cản đối với những nhà xuất khẩu mới muốn xâm nhập được vào thị trường Nhật Bản.
- Các hiệp hội sản xuất tuy có số thành viên hạn chế nhưng có ảnh hưởng rất lớn trên
thị trường, có khả năng kiểm soát thông tin và hoạt động của thị trường ở mức độ nhất
định.
- Các quy định chính thức nhằm bảo trợ hàng hoá trong nước và phân biệt đối xử với
hàng hoá nhập khẩu.
- Tầm quan trọng của các mối quan hệ cá nhân ở Nhật Bản, các doanh nghiệp ưa
thích các khách hàng lâu năm và có quen biết. Do đó rất khó để khiến cho đối tác Nhật
Bản thay đổi quan hệ kinh doanh. Để vượt qua được rào cản này thì phải phụ thuộc vào
ngành hàng, tính cạnh tranh của sản phẩm, uy tín của thương hiệu và sự linh hoạt, nhạy
bén và sáng suốt của các doanh nghiệp.
Ngoài các biện pháp để quản lý nhập khẩu, Nhật Bản còn áp dụng các biện pháp bảo
hộ nông nghiệp đa dạng. Nhà nước can thiệp vào quá trình sản xuất nông nghiệp qua
các khâu sản xuất, marketing sản phẩm, phân phối sản phẩm. Những chính sách bảo hộ
của Nhật Bản như:
- Hạn ngạch sản xuất PQ đối với ngành sữa.
- Chính sách ổn định thu nhập ISP đối với ngành rau quả.
- Hỗ trợ giá DP, người nông dân được thanh toán một phần hoặc toàn bộ mức chênh
lệch giữa giá mục tiêu mà nhà nước để ra với giá cả thực tiễn trên thị trường.
- Chương trình chuyển đổi sản xuất lúa gạo RDP. Chương trình này được bắt đầu
thực hiện từ những năm 60. Chính phủ sẽ thanh toán các khoản mà người nông dân đã
chi để chuyển đổi diện tích trồng lúa sang trồng các loại cây trồng khác tuỳ theo diện
tích đất đai chuyển đổi và loại cây trồng.
- Chương trình trợ cấp bảo hiểm rủỉ ro GSIP, Chính phủ sẽ trợ cấp một phần hoặc tái
bảo hiểm những rủi ro cho người nông dân khi xảy ra dịch bệnh và các rủi ro khác trong
trồng trọt, chăn nuôi.
- Chất lượng và an toàn thực phẩm FSAQ. Năm 2003, một Uỷ ban thực phẩm cấp
Văn phòng chính phủ đã được thành lập nhằm đánh giá và xác định mức độ rủi ro an
toàn đối với các sản phẩm thực phẩm, thức ăn chăn nuôi và hoá chất nông nghiệp.
1.2 Đặc điểm của thị trường Nhật Bản
1.2.1 Đặc điểm hệ thống phân phối
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel : 0918.775.368
Chức năng của hệ thống phân phối ở Nhật bản không có gì khác biệt lắm so với các
nước khác. Nó giúp cho việc di chuyển hàng hoá từ sản xuất đến tiêu dùng. Nó đồng
thời đóng vai trò là kênh bán hàng cho nhà sản xuất và kênh mua hàng cho người tiêu
dùng. Hệ thống phân phối thường gồm hai cấp đó là bán buôn và bán lẻ. Tuy nhiên, nó
còn đóng vai trò quan trọng là lá chắn bảo hộ cho sản xuất trong nước, bài trừ hàng
ngoại nhập. Mặc dù thời gian gần đây thì Nhật Bản đã cải cách hệ thống phân phối theo
hướng mở hơn, tạo điều kiện cho hàng hóa nhập khẩu; nhưng nó vẫn là một rào cản gây
trở ngại cho các nhà sản xuất nước ngoài. Cơ bản, hệ thống này bao gồm 3 kênh chính:
- Nhà nhập khẩu-nhà bán buôn-nhà bán lẻ-người tiêu dùng. Giá bán lẻ thường bị
đội lên cao gấp 3-4 lần.
- Nhà nhập khẩu- nhà bán buôn-người tiêu dùng. Giá bán lẻ thường cao gấp 2-2,5
lần giá FOB.
- Nhà nhập khẩu-người tiêu dùng (đặt hàng qua thư hoặc qua internet). Giá có thể
gấp đôi giá FOB.
Giữa các nhà sản xuất và bán lẻ Nhật Bản có sự liên kết rất chặt chẽ, thể hiện ở
chỗ các nhà sản xuất cung cấp vốn cho các nhà bán buôn, các nhà bán buôn lại cung cấp
tài chính cho các nhà bán lẻ. Các nhà sản xuất thực hiện chế độ chiết khấu hoa hồng
thường xuyên và rộng rãi, sẵn sàng mua lại hàng nếu không bán được, các nhà bán lẻ
thường chỉ kinh doanh một số mặt hàng của các nhà sản xuất nhất định trong nước. Mối
quan hệ giữa các nhà sản xuất với các nhà phân phối, bán lẻ rất khăng khít, bền vững.
Do đó, các nhà phân phối Nhật Bản rất e ngại khi tiếp nhận nguồn hàng từ nước ngoài.
Họ không muốn phá vỡ mối quan hệ này, và lo ngại các nhà cung cấp nước ngoài
không thể giao hàng đúng hẹn, không có chế độ hậu mãi tốt như các nhà cung cấp trong
nước. Đây là một điểm mà các nhà xuất khẩu Việt Nam cần phải chú ý. Cần phải xây
dựng được uy tín, xây dựng được thương hiệu của sản phẩm và hệ thống dịch vụ hậu
mãi tốt thì mới có thể xâm nhập vào thị trường Nhật Bản.
1.2.2 Các tập đoàn kinh tế “Keiretsu”
Keiretsu là một hệ thống kinh tế và tổ chức kinh doanh kiểu Nhật Bản và thường
được hiểu là các tổ hợp hay tập đoàn công nghiệp khổng lồ của Nhật Bản. Nó được
thành lập vào đầu những năm 60 khi các thị trường chúng khoán của Nhật Bản trở nên
yếu kém. Các công ty lâm vào tình trạng có thể bị các đối thủ mạnh khác giành quyền
kiểm soát. Theo đó, việc ra đời các tập đoàn này là một biện páhp dối phó hợp lí cho sự
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel : 0918.775.368
tồn tại của họ. Đó là các tập đoàn như : Mitsubishi, Mitsui, Sumitomo … Các công ty
thành viên của mỗi tập đoàn này được liên kết với nhau qua 3 yếu tố, dó là
- Nắm chéo các cổ phẩn của nhau.
- Các mối quan hệ nhân sự.
- Vấn đề tài chính bên trong.
Việc nắm giữ cổ phần đan xen, chiếm một số vốn lớn, gần 35% toàn bộ số vốn của
nền kinh tế Nhật Bản cùng đội ngũ quản lý, điều hành công việc với mục tiêu tạo lợi
nhuận tối đa trong một thời gian dài đã cho phép các tập đoàn này khống chế thị trường
trong thời kỳ mở rộng kinh tế, thủ tiêu cạnh tranh trong thời kỳ suy thoái. Keiretsu là
một trong những đặc trưng nhất của nền kinh tế Nhật Bản và cũng là một hàng rào ngăn
cản sự xâm nhập vào thị trưòng Nhật Bản của hàng hoá nước ngoài.
1.2.3 Đặc điểm hệ thống bán lẻ
Đối với các quốc gia Châu Âu và Mỹ, lượng hàng bán lẻ chủ yếu được phân phối
thông qua hệ thống các cửa hàng đại lý lớn, hay hệ thống các siêu thị như WALL-
MART, nhưng tại thị trường Nhật Bản thì các cửa hàng kinh doanh nhỏ lẻ lại chiếm vị
trí thống trị. Trong những năm gần đây, vị trí của các cửa hàng này có phần giảm đi do
sự phát triển của các cửa hàng bách hoá, các siêu thị và chuỗi cửa hàng chuyên dụng.
Nhưng nó vẫn hiếm vị trí rất quan trọng trong việc tiêu thụ hàng hoá tại thị trường Nhật
Bản.
Một nửa lượng mua của người tiêu dùng được thực hiện tại các cửa hàng “Mom and
Pob stores”, thông thường thì các cửa hàng này không bán hàng ngoại nhập. Các cửa
hàng này có mối liên hệ rất mật thiết với các nhà sản xuất trong nước qua việc nhận ưu
đãi về tài chính, tài trợ về cơ sở hạ tầng và sự hậu thuẫn trong marketing. Mặt khác, các
cửa hàng này có quy mô và diện tích nhỏ, không thể chứa được lượng hàng lớn, không
có đủ năng lực tài chính để dự trữ các mặt hàng đắt tiền hoặc nhập khẩu hàng hoá theo
đơn đặt hàng.
1.2.4 Đặc điểm của tập quán kinh doanh
Các doanh nghiệp Nhật Bản tương đối khó tính trong việc lựa chọn đối tác làm ăn.
Khi chọn đối tác để cung cấp hay nhập khẩu hàng hoá thì họ thường có nhu cầu thẩm
định trực tiếp sản phẩm. Chúng ta nên chuẩn bị sản hàng mẫu để có thể giới thiệu tới
đối tác Nhật Bản. Người Nhật khá là chi li do đó trong các cuộc đàm phán, họ rất quan
tâm đến tất cả các thông tin liên quan như nguyên liệu, quy trình sản xuất, chi phí sản
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel : 0918.775.368
xuất…, vì vậy khi đàm phán với người Nhật thì các doanh nghiệp Việt Nam cần phải
chuẩn bị và đưa ra được những thông tin này.
Ngoài ra, các doanh nghiệp Nhật Bản có thói quen đến tận doanh nghiệp mua hàng
để xem cơ sở đối tác, dây chuyền sản xuất cũng như hệ thống phân xưởng. Đối với các
mặt hàng sản xuất không tập trung như thủ công mỹ nghệ, sản phẩm thủ công thì nên có
các showroom để tạo được sự tin tưởng nơi họ.
Trong làm ăn buôn bán với đối tác Nhật Bản thì cần phải chú ý để giữ chữ tín, tạo
được sự tin cậy ở họ. Bên cạnh đó, do người Nhật rất coi trọng các nghi thức, các chi
tiết nhỏ, cách ứng xử văn hoá của đối tác nên một vấn đề đặt ra đó là cần phải nghiên
cứu kỹ về đời sống văn hoá của người Nhật để có cách cư xử thích hợp.
1.2.5 Thị hiếu tiêu dùng của người Nhật Bản.
Người tiêu dùng Nhật Bản đòi hỏi cao về chất lượng, độ bền độ tin cậy và sự tiện
dụng của sản phẩm. Họ khá nhạy cảm với vấn đề giá cả. Trong những năm gần đây, do
giá cả leo thang nên người Nhật có xu hướng tiêu dùng hàng rẻ. Nhưng chất lượng hàng
hoá vẫn là yếu tố được đặt lên hàng đầu. Họ sẵn sàng trả cho một sản phẩm tuy có giá
đắt hơn nhưng chất lượng đảm bảo.
Người Nhật Bản rất quan tâm đến an toàn vệ sinh thực phầm, xuất xứ hàng thực
phẩm. Họ nhạy cảm với hưong vị của sản phẩm và sẵn sàng trả giá cao cho những
hương vị hấp dẫn, họ hiểu biết và có nhiều thông tin về các loại thực phẩm, nhãn mác
và thương hiệu sản phẩm. Họ không chỉ quan tâm đến chất lượng sản phẩm mà chú
trọng cả đến khâu nguyên liệu, bảo quản sau khi thu hoạch đến cả công nghệ chế biến
sản phẩm.
Do đặc điểm diện tích nhà cửa khá là chặt hẹp và gia đình thường chỉ có ít người
nên họ thích mua những lô hàng có số lượng vừa phải, và do mức sống cao nên họ cũng
không yêu cầu sản phẩm phải có vòng đời quá cao và có xu hướng thay đổi đồ đạc
thường xuyên.
Một đặc điểm khá là quan trọng trong thói quen tiêu dùng của người dân Nhật Bản
là họ coi trọng các tiêu chuẩn của Nhật Bản như “Tiêu chuẩn nông sản Nhật Bản” JAS,
“Tiêu chuẩn công nghiệp Nhật Bản” JIS hơn các tiêu chuẩn quốc tế. Nếu các mặt hàng
nhập khẩu mà được dán các dấu tiêu chuẩn này thì sẽ dễ dàng chiếm được lòng tin của
người tiêu dùng Nhật Bản.
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel : 0918.775.368

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét