Thứ Sáu, 21 tháng 2, 2014

Công tác đăng kí bất động sản

5
- Về mặt thực tiễn, những phân tích, đánh giá cũng nh những đề xuất
cụ thể mà tác giả đa ra nhằm xây dựng và hoàn thiện pháp luật về bất
động sản sẽ là tài liệu quan trong giúp các nhà làm luật tham khảo, vận
dụng vào quá trình xây dựng Luật đăng ký bất động sản một cách phù hợp
và hiệu quả đồng thời cũng là tài liệu giúp các cơ quan bảo vệ pháp luật
giải quyết nhanh chóng, đúng đắn các tranh chấp và vi phạm liên quan đến
bất động sản.
7. Kết cấu của đề tài:
Đề tài đợc kết cấu gồm phần mở đầu, ba chơng, phần kết luận và danh
mục tài liệu tham khảo. Cụ thể là:
Chơng 1: Những lý luận cơ bản về bất động sản và pháp luật về đăng ký
bất động sản.
Chơng 2: Thực trạng pháp luật về đăng ký bất động sản ở Việt nam.
Chơng 3: Một số giải pháp nhằm xây dựng và hoàn thiện pháp luật về
đăng ký bất động sản.












6
Chơng 1
Những lý luận cơ bản về bất động sản và
pháp luật về đăng ký bất động sản
1.1. Khái niệm về bất động sản và đăng ký bất động sản
1.1.1.Khái niệm tài sản
Để duy trì cuộc sống và phát triển xã hội, con ngời luôn phải lao động để tạo
ra của cải vật chất. Dới góc độ khoa học, tài sản là một dạng của cải vật chất.
Khái niệm tài sản trong khoa học pháp lý luôn gắn liền với khái niệm quyền sở
hữu, là đối tợng của quyền sở hữu và là khách thể của quan hệ pháp luật về sở
hữu. Với vị trí nh vậy, tài sản luôn có những đặc trng riêng của mình.
Có thể nói, khái niệm tài sản trong khoa học pháp lý có sự thay đổi qua từng
thời kỳ khác nhau, phụ thuộc vào chế độ sở hữu, nền kinh tế và đặc điểm lịch sử
- xã hội của từng nớc. Khi xã hội càng phát triển thì khái niệm tài sản càng thay
đổi theo xu hớng trìu tợng hơn, khái quát hơn.
Luật La Mã trớc đây chỉ nhìn nhận khái niệm tài sản là các đồ vật.
Theo nghĩa rộng thì đồ vật là những gì tồn tại qua sự nhận thức đợc bằng vật
thể. Theo nghĩa hẹp, đồ vật là tất cả những gì có thể tồn tại nh đối tợng của
quan hệ pháp luật nói chung. Theo nghĩa hẹp nhất, đồ vật là tất cả những gì
đợc coi nh vật thể (khách thể) của quyền tài sản. Luật La Mã trớc đây coi con
ngời cũng có thể là tài sản. Quan niệm này hiện nay đã tỏ ra vô cùng lạc hậu.
ở Việt Nam, tại Điều 163 Bộ luật Dân sự(BLDS) năm 2005 quy định: Tài
sản bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá trị và các quyền tài sản. Khái niệm tài sản
của pháp luật Việt Nam về cơ bản là khái quát và hợp lý. Trong đó, vật muốn
đợc coi là tài sản phải thoả mãn ba điều kiện: là một bộ phận của thế giới vật
chất, mang lại lợi ích cho con ngời và là vật con ngời có thể kiểm soát đợc.
Tiền là một loại hàng hoáđặc biệt, có chức năng dùng để trao đổi, đại
diện cho giá trị thực của hàng hoá. Do đó, tiền cũng coi là tài sản. Tuy nhiên,
chúng ta không nên nhầm lẫn giữa khái niệm tài sản và hàng hoá. Khái niệm
7
hàng hoá hẹp hơn khái niệm tài sản. Tiền vừa là tài sản vừa là một loại hàng hoá
đặc biệt. Không những thế, xét ở góc độ khác thì tiền còn là đại diện cho chủ
quyền của Quốc gia. Đồng tiền của mỗi nớc phản ảnh tiềm lực kinh tế và khả
năng cạnh tranh của nớc đó so với các nớc khác.
Các giấy tờ có giá trị nh cổ phiếu, trái phiếu, séc, tín phiếu, kỳ phiếu,
sổ tiết kiệmcũng đợc coi là tài sản. Quy định này của pháp luật Việt Nam về
tài sản là một quy định mở, làm cho tài sản không chỉ bó hẹp ở vật hoặc tiền; đáp
ứng yêu cầu của thực tiễn giao lu dân sự đa dạng, phong phú hiện nay.
Các quyền tài sản cũng đợc coi là tài sản vì đáp ứng đợc yêu cầu trị
giá đợc bằng tiền và có thể chuyển giao đợc trong giao lu dân sự. Chẳng hạn,
quyền đòi nợ, quyền yêu cầu bồi thờng thiệt hại về tài sảnvv
Khái niệm về tài sản ở một số nớc trên thế giới thờng đợc quy định
khác nhau. Chẳng hạn, BLDS Nhật Bản đa ra khái niệm về tài sản khá hạn hẹp.
Theo đó, tại Điều 85 BLDS Nhật Bản quy định chỉ có đồ vật mới đợc coi là
tài sản. Đồ vật đợc hiểu là những gì hữu hình, có thể chiếm một khoảng
không gian nhất định. Các chất thuộc thể lỏng, khí, rắn, điện, nhiệt, ánh sáng
không phải là đồ vật. Hơn thế nữa, pháp luật Nhật bản chỉ coi các đồ vật bên
ngoài là tài sản. Con ngời không phải là tài sản mà là chủ thể của tài sản. Đồ
vật là tài sản phải thuộc sự kiểm soát của con ngời. Quy định này tỏ ra không
phù hợp với thực tế cuộc sống. Trên thực tế, đối tợng của các quyền sở hữu
không giới hạn ở đồ vật mà rộng hơn rất nhiều.
Tài sản là khách thể của quan hệ dân sự - là cái mà chủ thể trong quan hệ
pháp luật luôn hớng tới. Nói cách khác, tài sản là đối tợng trong giao lu dân
sự và tham gia vào hầu hết các giao lu dân sự. Đây là một đặc điểm nổi bật của
tài sản, giúp chúng ta không có cách hiểu sai lệch về tài sản. Không những thế,
tài sản luôn phải có đặc trng giá trị, phải thoả mãn một nhu cầu nhất định của
con ngời. Tính giá trị của tài sản phải đợc hiểu một cách khái quát nhất, bao
gồm giá trị vật chất và giá trị tinh thần. Giá trị vật chất của tài sản giúp con
ngời thoả mãn nhu cầu về sinh sống nh ăn, mặc, ở, đi lại, giao dịch ,còn giá
8
trị tinh thần là giá trị trìu tợng của tài sản. Nhu cầu của con ngời là vô tận, một
vật dù không có giá trị vật chất nhng nếu có giá trị tinh thần cũng là tài sản. Đôi
khi, giá trị tinh thần của tài sản lại lớn hơn rất nhiều so với giá trị vật chất, đặc
biệt là trong xã hội hiện đại. Thực chất, sự phân tích này chỉ mang tính lý luận và
tơng đối. Bởi vì, một tài sản thông thờng vừa có giá trị vật chất vừa có giá trị
tinh thần. Ngoài ra, chúng ta không nên nhầm lẫn giá trị của tài sản với giá trị
của hàng hoá. Giá trị của hàng hoá bao gồm giá trị và giá trị sử dụng. Giá trị của
hàng hoá là lợng lao động tiêu hao kết tinh trong hàng hoá và nó đợc biểu hiện
ra bên ngoài bằng giá cả. Hàng hoá có giá trị bởi vì nó thoả mãn nhu cầu sử
dụng của con ngời và còn bởi con ngời bỏ sức lao động ra để tạo ra hàng hoá.
Trong khi đó, khái niệm giá trị của tài sản rộng hơn rất nhiều.
1.1.2. Khái niệm bất động sản
Điều 174 BLDS năm 2005 đa ra quy định về bất động sản khá rõ ràng: Bất
động sản là các tài sản, bao gồm: Đất đai; nhà, công trình xây dựng gắn liền với
đất đai, kể cả các tài sản gắn liền với nhà, công trình xây dựng đó; các tài sản
khác gắn liền với đất đai; các tài sản khác do pháp luật quy định.
Nh vậy, đặc trng đầu tiên để nhận biết đợc bất động sản là tính không
thể di rời hay hiểu một cách khác đó là tính cố định của tài sản. Đây là đặc
điểm đầu tiên và cơ bản nhất để phân biệt bất động sản với động sản. Tính
không thể di rời của bất động sản đợc hiểu rất đa dạng, có thể là do tính chất
cố định của tài sản, cụ thể nh đất đai, nhà ở, công trình xây dựng gắn liền với
đất đai; hay cũng có thể do mục đích sử dụng của tài sản là cố định hoặc gắn liền
với vật cố định, chẳng hạn nh các tài sản gắn liền với nhà ở, công trình xây
dựng đó hoặc các tài sản khác gắn liền với đất đai (cây trồng trên đất đai).
Bên cạnh việc liệt kê những tài sản đợc coi là bất động sản nh trên, pháp
luật cũng coi máy bay, tàu thuỷ là bất động sản. Mặc dù máy bay, tàu thuỷ
không phải là tài sản có tính chất cố định nh đất đai, nhà ởnhng do giá trị
của chúng lớn và việc sử dụng máy bay, tàu thuỷ có một số điểm đặc biệt nên
chúng đợc coi nh bất động sản để có chế độ quản lý thích hợp. Chúng ta đều
9
biết rằng, máy bay, tàu thuỷ là những tài sản có môi trờng hoạt động đặc biệt
(môi trờng nớc, trên không trung), hơn nữa, phạm vi hoạt động của chúng liên
quan đến biên giới lãnh thổ, phạm vi chủ quyền giữa các quốc gia nên pháp luật
nhất định phải có chế độ quản lý riêng.
Tuy nhiên, trong số các tài sản đợc coi là bất động sản theo quy định của
BLDS năm 2005 thì đất đai; nhà ở, công trình xây dựng gắn liền với đất đai, kể
cả các tài sản gắn liền với nhà, công trình xây dựng đó là những bất động sản
chủ yếu và phổ biến. Chính vì thế, việc đa các bất động sản này tham gia vào
các giao dịch dân sự đòi hỏi phải có những quy định hết sức cụ thể nhằm kiểm
soát và quản lý chặt chẽ, bảo vệ lợi ích cho các bên tham gia giao dịch cũng nh
lợi ích chung của xã hội. Đây cũng là lý do để pháp luật quy định chế định về
đăng ký bất động sản.
Trong số các loại bất động sản, đất đai là tài sản có chế độ pháp lý khá đặc
biệt. Thực chất, đất đai là một bộ phận quan trọng của lãnh thổ quốc gia (thuộc
chủ quyền hoàn toàn và tuyệt đối của quốc gia), là nơi dân c sinh sống và cũng
là tài sản có giá trị sử dụng cao, tạo ra phần lớn của cải vật chất cho xã hội.
Chính vì tầm quan trọng đặc biệt nh vậy, pháp luật Việt Nam quy định: đất đai
thuộc sở hữu toàn dân, do Nhà nớc trực tiếp quản lý hay Nhà nớc là đại diện
duy nhất cho chủ sở hữu đối với đất đai. Các cá nhân, tổ chức đợc giao đất
không có quyền sở hữu mà chỉ có quyền sử dụng đất đai. Điều này dẫn đến việc
quy định chế độ pháp lý về quyền đối với đất đai có những hạn chế nhất định.
Tuy nhiên, để đảm bảo quyền và lợi ích chính đáng cho các cá nhân, tổ chức
đợc giao đất, Nhà nớc cũng trao cho các cá nhân, tổ chức này một số quyền
nhất định để phù hợp với thực tế hơn. Chẳng hạn, quyền chuyển nhợng, chuyển
đổi, cho thuê, cho thuê lại, thế chấp, thừa kế quyền sử dụng đất.
Ngoài ra, nhà, công trình xây dựng gắn liền với đất đai, các tài sản gắn
liền với nhà, công trình xây dựng đó cũng là các bất động sản chịu sự quản lý
chặt chẽ của pháp luật. Các chủ thể nếu muốn xác lập quyền sở hữu đối với nhà
10
cũng phải tuân theo yêu cầu về đăng ký và các thủ tục khác mà pháp luật quy
định để bảo đảm sự quản lý của nhà nớc đối với loại bất động sản này.
Vấn đề đặt ra ở đây là, pháp luật cần có các quy định cụ thể điều chỉnh
việc đăng ký bất động sản, nhng không có nghĩa là mọi bất động sản đều đợc
đăng ký, mà chỉ một số loại bất động sản nhất định, tuỳ thuộc vào sự quan trọng
và mức độ tham gia vào thị trờng bất động sản của chúng. Trên thực tế, bất
động sản là tài sản có giá trị lớn và tham gia giao dịch trên thị trờng với mức độ
ngày càng thờng xuyên, liên tục. Khi tham gia vào giao dịch, các chủ thể không
bao giờ phân biệt tách rời bất động sản thành đất và tài sản trên đất. ở Việt nam,
mặc dù đất đai thuộc sở hữu của nhà nớc nhng ngòi dân có quyền sử dụng
đất với 9 quyền năng đã đợc Luật đất đai quy định. Đây là cơ sở pháp lý quan
trọng để đất đai có thể đợc lu chuyển trên thị trờng bất động sản nh là một
loại hàng hoá.Tuy nhiên, để thị trờng bất động sản hoạt động hiệu quả, đòi hỏi
thông tin (mang tính chính thức) về bất động sản phải đợc cung cấp đầy đủ, kịp
thời, khách quan với thủ tục đăng ký, cung cấp thông tin đơn giản. Đây chính là
chức năng cơ bản của hệ thống đăng ký bất động sản trong điều kiện nền kinh tế
thị trờng hiện nay .
1.1.3. Khái niệm đăng ký bất động sản
Bất động sản là một lĩnh vực khá nhạy cảm bởi ảnh hởng sâu rộng của
vấn đề tới đời sống chính trị, kinh tế và xã hội của mỗi nớc. Tại các quốc gia
mà hệ thống đăng ký bất động sản đã đợc hình thành, tuy có những điểm khác
biệt nhất định nhng xét về chức năng thì hệ thống đăng ký bất động sản đều
nhằm bảo vệ các giao dịch, tránh những xung đột có thể xảy ra trên thị trờng
bất động sản thông qua cơ chế đăng ký và cung cấp thông tin về bất động sản.
Việc đăng ký bất động sản là hoạt động mang tính dịch vụ hành chính công. Về
bản chất, đăng ký chủ yếu và trớc tiên là phục vụ thị trờng bất động sản. Nhà
nớc cung cấp thông tin về bất động sản cho các tổ chức, cá nhân khi tham gia
giao dịch mà không tác động đến các giao dịch đó. Việc tác động của nhà nớc
đợc thể hiện thông qua việc ban hành chính sách, pháp luật để các chủ thể thực
11
hiện, mà không can thiệp trực tiếp vào các giao dịch trên thị trờng thông qua
các quyết định mang tính mệnh lệnh hành chính.
Theo các nhà nghiên cứu về vấn đề đăng ký bất động sản ở các nớc, hiện
nay, ở các nớc theo nền kinh tế thị trờng, một trong những mục tiêu của việc
đăng ký bất động sản là nhằm công khai hoá các quyền liên quan đến bất động
sản, phục vụ cho hoạt động của thị trờng bất động sản và các giao dịch khác
liên quan đến bất động sản.
Hiện nay, trên thế giới, đăng ký bất động sản thông thờng đợc thực hiện
theo hai hình thức là: đăng ký chứng th (deeds registration) và đăng ký quyền
(rights registration), nh một cơ chế giúp cho ngời mua đất, ngời nhận thế
chấp đất v.vtra cứu thông tin nhằm xác định rõ đợc quyền sở hữu đất của
ngời bán hoặc ngời thế chấp, tình trạng pháp lý của thửa đất. Tra cứu thông tin
là một hoạt động thông thờng trớc khi thực hiện việc mua đất hay nhận bảo
đảm và tài sản bảo đảm là đất, bất động sản gắn liền với đất.
Đăng ký chứng th phát triển mạnh mẽ ở Pháp, Bỉ, Thuỵ sĩ, Italia, Tây ban
nha, ấn độ và hầu hết các thuộc địa của Anh(trừ atralia và Cannada), hầu hết
các Bang của Mỹ, các nớc Nam mỹ, Scotland và irlan, các quận của Anh quốc.
Nhng hệ thống đăng ký chứng th thể hiện một số điểm hạn chế nhất định. Đó
là sự chẫm trễ, mất thời gian thẩm tra, tìm hiểu tính xác thực của các chứng th,
đặc biệt là trong các trờng hợp ngời lập chứng th có sai sót hoặc cố ý gian
lận. Điều này dẫn đến rủi ro cao cho những ngời mua hoặc tham gia giao dịch
khác về bất động sản. Để khắc phục những nhợc điểm này, đã dẫn đến việc
hình thành hệ thống đăng ký các quyền, bao gồm cả các giao dịch liên quan đến
một bất động sản. Hệ thống này phát triển mạnh ở Đức, áo, Hungary, các thuộc
địa của áo, phần lớn lãnh thổ Canada, một số Bang của Hoa kỳ, ở irland, Anh và
xứ Wales.
ở Việt Nam, pháp luật hiện hành quy định cả hai hệ thống đăng ký trên.
Theo đó, việc đăng ký bất động sản để xác lập quyền là hình thức nhằm xác lập
12
quyền và nghĩa vụ của ngời sử dụng đất, chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất. Để
thực hiện mục đích này, pháp luật Việt nam đã quy định cụ thể nh sau: Quyền
sử hữu đối với bất động sản đợc đăng ký theo quy định của Bộ luật này và pháp
luật về đăng ký bất động sản(Điều 167 BLDS năm 2005).
Tại Điều 48 Luật Đất đai năm 2003 cũng quy định: trờng hợp có tài sản
gắn liền với đất thì tài sản đó đợc ghi nhận trên giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất; chủ sở hữu tài sản phải đăng ký quyền sở hữu theo quy định của pháp luật về
đăng ký bất động sản hay Điều 692 BLDS năm 2005 quy định: Việc chuyển
quyền sử dụng đất có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký quyền sử dụng đất theo
quy định của pháp luật về đất đai.
Theo quy định tại khoản 19 Điều 4 Luật Đất đai năm 2003 thì đăng ký
quyền sử dụng đất là việc ghi nhận quyền sử dụng đất hợp pháp đối với một thửa
đất xác định vào hồ sơ địa chính nhằm xác lập quyền và nghĩa vụ của ngời sử
dụng đất.
Khoản 7, 8 Điều 3 Luật Bảo vệ và phát triển rừng 2004 quy định: Đăng ký
quyền sử dụng rừng, quyền sở hữu rừng sản xuất là rừng trồng là việc chủ rừng
đăng ký để đợc cơ quan nhà nớc có thẩm quyền công nhận quyền sử dụng
rừng, quyền sở hữu rừng sản xuất là rừng trồng bằng hình thức ghi trong giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất, trong hồ sơ địa chính nhằm xác lập quyền và
nghĩa vụ của chủ rừng.
Đối với hình thức thứ hai là đăng ký chứng th là đăng ký nhằm minh
bạch hoá và cung cấp thông tin về bất động sản thực chất là việc đăng ký để
đợc Nhà nớc công nhận hiệu lực của giao dịch và xác định thời điểm chuyển
quyền sở hữu, quyền sử dụng đối với bất động sản đó. Theo quy định tại khoản 1
Điều 168 BLDS năm 2005 thì: Việc chuyển quyền sở hữu đối với bất động sản
có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký quyền sở hữu, trừ trờng hợp pháp luật có
quy định khác. Theo đó, tại khoản 1 Điều 467 BLDS năm 2005 cũng quy định:
Tặng, cho bất động sản phải đợc lập thành văn bản, có công chứng, chứng thực
hoặc phải đăng ký, nếu theo quy định của pháp luật bất động sản phải đăng ký
13
quyền sở hữu. Hay Điều 492 BLDS năm 2005 quy định: Hợp đồng thuê nhà
phải đợc lập thành văn bản, nếu thời hạn thuê từ sáu tháng trở lên thì phải có
công chứng hoặc chứng thực và phải đăng ký, trừ trờng hợp pháp luật có quy
định khác.
Nhằm cụ thể hoá quy định trên của BLDS, tại khoản 4 Điều 146 Nghị định
số 181/2004/NĐ - CP ngày 29/10/2004 của Chính phủ về thi hành Luật đất đai
năm 2003 quy định: Hợp đồng chuyển đổi, chuyển nhợng, thuê, thuê lại quyền
sử dụng đất; hợp đồng hoặc văn bản tặng cho quyền sử dụng đất; hợp đồng thế
chấp, bảo lãnh, góp vốn bằng quyền sử dụng đất có hiệu lực kể từ thời điểm đăng
ký tại Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất. Thứ tự u tiên thanh toán nghĩa vụ
liên quan đến quyền sử dụng đất đợc xác định theo thứ tự đăng ký tại Văn
phòng đăng ký quyền sử dụng đất. Hiệu lực của di chúc hoặc biên bản chia thừa
kế, văn bản cam kết tặng cho quyền sử dụng đất thực hiện theo quy định của
pháp luật dân sự.
Từ việc nghiên cứu các quy định cụ thể về đăng ký bất động sản trong các
Luật chuyên ngành nêu trên, có thể đa ra một khái niệm về đăng ký bất động
sản nh sau: Đăng ký bất động sản là một thủ tục pháp lý do các cơ quan nhà
nớc có thẩm quyền tiến hành nhằm xác nhận bất động sản, xác định quyền sở
hữu, quyền sử dụng hợp pháp của cá nhân, tổ chức đối với bất động sản đó.
Tóm lại, đăng ký bất động sản thực chất là đăng ký tình trạng pháp lý của
bất động sản (tài sản nào, ở đâu, ai là chủ sử dụng đất, chủ sở hữu gắn liền với
đất, các giao dịch về bất động sản). Từ đó, có sự phân biệt giữa đăng ký bất động
sản với quản lý chuyên ngành về bất động sản nh quy hoạch, đo đạc, lập bản đồ
địa chính, cấp giấy phép xây dựng, kiểm tra các điều kiện về an toàn, chất lợng
và kỹ thuật của công trình xây dựng do các cơ quan quản lý đất đai, xây dựng,
công nghiệp, giao thông và các cơ quan quản lý chuyên ngành khác về từng loại
bất động sản thực hiện.
Nh vậy, thông qua việc đăng ký bất động sản, Nhà nớc công nhận và
bảo hộ quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất. Việc đăng ký
14
không chỉ đơn thuần là công khai hoá thông tin về nội dung đã đăng ký. Do đó,
khi xây dựng Luật đăng ký bất động sản cũng cần thể hiện rõ quan điểm nêu trên
trong các quy định về trình tự, thủ tục đăng ký bất động sản.
1.2. Phạm vi đối tợng điều chỉnh của pháp luật về đăng ký bất động sản
Đây là một trong các vấn đề quan trọng trong pháp luật về đăng ký bất
động sản. Theo pháp luật hiện hành của nớc ta, hoạt động đăng ký bất động sản
bao gồm: Đăng ký để đợc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và quyền sở
hữu tài sản gắn liền với đất (gồm có công trình xây dựng, rừng sản xuất là rừng
trồng, vờn cây lâu năm) và đăng ký các giao dịch về bất động sản, bao gồm:
Một là, quyền sử dụng đất, trong trờng hợp đợc Nhà nớc giao đất; cho
thuê đất; chuyển đổi, chuyển nhợng, tặng cho, thừa kế, góp vốn bằng giá trị
quyền sử dụng đất mà bên nhận góp vốn là pháp nhân.
Hai là, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất trong trờng hợp trao đổi,
mua bán, tặng cho, thừa kế, góp vốn bằng tài sản gắn liền với đất mà bên góp
vốn là pháp nhân.
Ba là, quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất theo bản
án, quyết định của Toà án, quyết định của cơ quan nhà nớc có thẩm quyền khác
có hiệu lực pháp luật.
Bốn là, việc thuê đất, cho thuê lại, thế chấp quyền sử dụng đất, tài sản gắn
liền với đất; quyền sử dụng hạn chế bất động sản liền kề theo thoả thuận.
Trong khi đó, Luật đăng ký bất động sản của Liên bang Nga và Nghị định
ngày 04/01/ 1955 về đăng ký bất động sản của Pháp có quy định khá rộng rãi về
phạm vi đăng ký.
Luật đăng ký bất động sản của Liên bang Nga(LĐKBĐS) điều chỉnh việc
đăng ký các quyền liên quan đến bất động sản nói chung, trừ các quyền liên
quan đến tàu bay, tàu biển, tàu nội địa và tàu vũ trụ (khoản 1 Điều 4
LĐKBĐS Nga). Tại Điều 1 LĐKBĐS Liên bang Nga cũng quy định cụ thể về
các loại tài sản phải đăng ký quyền. Theo đó, tài sản là bất động sản mà quyền
đối với các tài sản đó phải đợc đăng ký theo quy định của Luật này là: các

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét