Chuyên đề tốt nghiệp
Phần nội dung
Chương I
Cơ sở lý luận về đầu tư trực tiếp nước ngoài ( FDI ) và các rủi ro có
thể xảy ra trong hoạt động của các dự án FDI
I. Lý luận về FDI
1. Các khái niệm cơ bản
1.1. Đầu tư trực tiếp nước ngoài ( FDI )
- Đầu tư trực tiếp cùng với đầu tư gián tiếp và tín dụng thương mại là
ba bộ phận cơ bản của vốn đầu tư quốc tế với hình thức là đầu tư tư nhân.
- Có rất nhiều định nghĩa khác nhau về FDI:
Theo khái niệm mà Quỹ tiền tệ thế giới IMF trong báo cáo cán cân
thanh toán hàng năm đưa ra
2
thì đầu tư trực tiếp nước ngoài là là đầu tư có lợi
ích lâu dài của doanh nghiệp tại một nước khác (là nước nhận đầu tư- hosting
country), không phải tại nước mà doanh nghiệp đang hoạt động ( nước đi đầu
tư- source country) và với mục đích quản lý một cách có hiệu quả doanh
nghiệp.
Uỷ ban thương mại và phát triển thế giới của Liên hợp quốc
(UNCTAD) trong Báo cáo về đầu tư thế giới năm 1996 lại đưa ra khái niệm
3
2
Banlance of payments, fifth edition, Washington, DC IMF 1993, page 235
3
Xem: World Investment Report 1996, United Nations, 1996, page 219.
5
Chuyên đề tốt nghiệp
về đầu tư trực tiếp nước ngoài là đầu tư có mối liên hệ lợi ích và kiểm soát lâu
dài của một pháp nhân hoặc thể nhân ( là nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài hoặc
công ty mẹ) đối với một doanh nghiệp ở một nền kinh tế khác (với doanh
nghiệp FDI hoặc chi nhánh nước ngoài hoặc chi nhánh doanh nghiệp).
Quan điểm về FDI ở Việt Nam được quy định trong khoản 1 Điều 2 Luật đầu
tư trực tiếp nước ngoài đươc sửa đổi bổ sung năm 2000: “ đầu tư trực tiếp
nước ngoài là việc nhà đầu tư nước ngài đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền
hoặc bất kỳ tài sản nào để tiến hành các hoạt động đầu tư theo quy định của
Luật này”
4
.
1.2. Dự án FDI
Dự án đầu tư về nội dung là tổng thể các hoạt động dự kiến với các
nguồn lực và chi phí cần thiết được bố trí theo một kế hoạch chặt chẽ với lịch
sử thời gian và địa điểm xác định để tạo mới, mở rộng hoặc cải tạo những đối
tượng nhất định nhằm thực hiện những mục tiêu kinh tế- xã hội nhất định.
Theo sự đa dạng của các khái niệm về đầu tư trực tiếp nước ngoài thì
cũng có những các hiểu khác nhau về dự án FDI . Trong khuôn khổ của đề tài
nghiên cứu thì có thể hiểu, dự án FDI là những dự án đầu tư do các nhà đầu
tư nước ngài đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền hoặc bất kỳ tài sản nào để tiến
hành các hoạt động đầu tư theo quy định của Luật đầu tư trực tiếp nước ngoài.
2. Các đặc trưng cơ bản
Để hiểu rõ hơn về các dự án FDI để nhìn nhận một cách khách quan về
các vấn đề còn tồn tại, cần nắm được những đặc trưng cơ bản của các dự án
này.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài cũng là một hình thức đầu tư nên các dự án
FDI cũng mang những đặc trưng cơ bản của các dự án đầu tư.
4
Khoản 1, Điều 2, Luật Luật đầu tư trực tiếp nước ngoài sửa đổi bổ sung, Năm 2000
6
Chuyên đề tốt nghiệp
Thứ nhất, đây là hoạt động bỏ vốn của các nhà đầu tư và vì vậy các
quyết định đầu tư thông thường là quyết định về tài chính và mỗi quyết định
đưa ra đều phải cân nhắc giữ lợi ích trước mắt và các lợi ích lâu dài của dự án.
Thứ hai, các hoạt động của các dự án đầu tư luôn mang tính chất lâu
dài.Trước bất cứ một hoạt động nào đều cần có chi phí hoạt động và mang lại
một kết quả nhất định.
Thứ ba, cũng như những dự án đầu tư khác,rủi ro chính là một trong những
đặc trưng cơ bản của các dự án FDI.
Bên cạnh đó, các dự án FDI cũng có những đặc trưng riêng để phân
biệt với các dự án khác không có các yếu tố nước ngoài.Các dự án FDI có sự
tham gia của các bên có quốc tịch và ngôn ngữ khác nhau, và vì vậy các dự án
bị chi phối bởi nhiều hệ thống pháp luật, từ nước đầu tư, nước nhận đầu tư
đến hệ thống pháp luật quốc tế.
Các nhà đầu tư trực tiếp tham gia hoặc họ có thể tự quản lý và điều hành
các dự án và tất cả các đối tượng bỏ vốn.
Ngoài ra,đầu tư trực tiếp nước ngoài là hình thức giao lưu giữa các nền
văn hoá, tạo ra nhiều hình thức kinh doanh mới với những pháp nhân có chứa
yếu tố nước ngoài.Quan trọng hơn nữa là góp phần chuyển giao công nghệ và
các phương thức quản lý mới giữa các bên.
Mục đích cuối cùng của các dự án FDI chính là các bên tham gia hoạt
động đầu tư cùng có lợi, hoạt động sẽ mang lại lợi ích chung cho mọi chủ thể
tham gia.
3. Vai trò của FDI đối với nền kinh tế
3.1. Những ảnh hưởng tích cực đối với tăng trưởng kinh tế
5
5
Xem: Đầu tư trực tiếp nước ngoài với phát triển kinh tế ở Việt Nam, Nguyễn Văn Tuấn,
Nhà xuất bản Tư Pháp, năm 2005, tr181-219
7
Chuyên đề tốt nghiệp
- Đầu tư trực tiếp nước ngoài có vai trò quan trọng đối với tăng trưởng
kinh tế,giúp cho nước tiếp nhận đầu tư huy động mọi nguồn lực sản xuất.
+ Đầu tư trực tiếp nước ngoài bổ sung nguồn vốn cho phát triển kinh
tế.Có thể coi đó là một nhân tố hay cú huých lớn để phá vỡ vòng luẩn quẩn
của sự đói nghèo.
+ Đầu tư trực tiếp nước ngoài là một kênh chuyển giao công nghệ làm
khoảng cách công nghệ giữa nước đầu tư và nước nhận đầu tư bị thu hẹp.Bên
cạnh đó tạo phản ứng tích cực phổ biến công nghệ và hoạt động phát minh
công nghệ.
+ Đầu tư trực tiếp nước ngoài góp phần nâng cao chất lượng lao
động,phát triển nguồn nhân lực.Hoạt động của các dự án FDI giúp trực tiếp
đào tạo lao động và gián tiếp nâng cao chất lượng lao động của nước tiếp
nhận đầu tư.
- Đầu tư trực tiếp nước ngoài góp phần trong việc giải quyết các vấn đề
kinh tế- xã hội,góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế của nước tiếp nhận đầu
tư.Bên cạnh đó, còn giúp thúc đẩy xuất khẩu, xây dựng năng lực xuất khẩu và
mở rộng thị truờng xuất khẩu.
+Đầu tư trực tiếp nước ngoài còn có vai trò trong việc cải thiện cán cân
thanh toán và giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập cho người lao động.
+Đầu tư trực tiếp nước ngoài góp phần bảo vệ môi trường, khai thác có
hiệu quả tài nguyên thiên nhiên và góp phần vào quá trình mở rộng hợp tác
kinh tế quốc tế .
3.2. Những thách thức và hạn chế của đầu tư trực tiếp nước ngoài
- Vốn do hoạt động FDI cung cấp có chi phí vốn lớn hơn so với các
nguồn vốn khác từ nước ngoài.Trong truờng hợp được cung cấp với một số
lượng lớn sẽ gây ảnh hưởng đến chính sách tiền tệ của một quốc gia.
8
Chuyên đề tốt nghiệp
- Chuyển giá là một trong những vấn đề mà các nước tiếp nhận đầu tư lo
ngại, gây ra cạnh tranh không lành mạnh và dẫn đến hạn chế đối với nền kinh
tế.
- Tác động gây ô nhiễm môi trường thông qua hoạt động sản xuất của
các dự án.Các nước đi đầu tư cần nơi thải công nghệ lạc hậu nhằm đổi mới
công nghệ của mình và như vậy các nước nhận đầu tư, đặc biệt là các nước
kém và đang phát triển trở thành bãi rác công nghệ.
- Về lao động,người lao động làm việc trong doanh nghiệp FDI thường đòi
hỏi phải có trình độ lao động cao nếu không đáp ứng sẽ bị sa thải.Bên cạnh
đó, đầu tư trực tiếp nước ngoài còn có tác động tiêu cực với cạnh tranh, cán
cân thanh toán và chính trị.
II. Rủi ro trong các dự án FDI.
1. Khái niệm và tính chất của các rủi ro trong các dự án FDI
1.1. Khái niệm về rủi ro.
Có rất nhiều khái niệm về rủi ro được nhắc đến trong các lĩnh vực khác
nhau của dời sống kinh tế xã hội
Rủi ro đề cập đến những sự kiện, vấn đề không may mắn, bất ngờ xảy ra
gây những thiệt hại cho lợi ích con người, tài sản, nguồn lợi và trách nhiệm.
6
1.2. Một số tính chất.
Rủi ro là một trạng thái tiềm ẩn gây nên những mối nguy hiểm với các
mức độ khác nhau gây tổn thất cho con người nhưng lại rất khó để có thể đo
lường trước nó. Từ những khái niệm khác nhau về rủi ro, có thể thấy rủi ro có
những tính chất cơ bản sau:
- Tính bất ngờ: rủi ro bao gồm những sự kiện mà con người không thể đo
lường nó một cách đầy đủ và chắc chắn.Tất cả các rủi ro đều bất ngờ với
những mức độ khác nhau dẫn đến việc con người có thể nhận diện rủi ro hay
6
Một số giải pháp ngăn ngừa và hạn chế rủi ro trong triển khai thực hiện các dự án FDI
tại Việt Nam, Tạp chí Kinh tế và dự báo, Hà Nội 2001, Số 12, tr7-9
9
Chuyên đề tốt nghiệp
không. Trong trường hợp con người không thể đoán trước được rủi ro và
không nhận dạng được thì nó sẽ xảy ra hoàn toàn bất ngờ với con người.
Cũng có những rủi ro mà con người nhận dạng được nhưng không thể đo
lường một cách chính xác những thiệt hại mà nó có thể mang lại.Tuy nhiên,
nếu con người có thể nhận dạng và tính được chính xác các rủi ro có thể đến
với mình thì rủi ro sẽ không còn nữa mà nó trở thành những sự kiện bất lợi
mà con người không mong muốn xảy ra như thiên tai, thời tiết,
- Tính chất ngoài mong đợi: trong cuộc sống, con người ai cũng mong
muốn nhận được lợi ích cũng như những điều tốt đẹp may mắn trong mọi lĩnh
vực và hoạt động của cuộc sống.Tuy nhiên trong cuộc sống không phải lúc
nào cũng được như vậy. Những điều, những sự kiện không may mắn, gây tổn
thất cho cuộc sống của con người luôn tồn tại và trở thành điều không mong
muốn trong cuộc sống hay nói cách khác đó là những sự kiện ngoài mong đợi
của con người.
- Tính sự cố gây ra tổn thất: những rủi ro xảy ra không thể đo lường
được hoặc đo lường một cách không chính xác dẫn đến những hậu quả cho
con người trong hoạt động họ tham ra có rủi ro. Trên thực tế, tổn thất mà mỗi
rủi ro mang lại là không giống nhau, có thể nhiều, ít hay đôi khi có thể coi là
không hề mang lại tổn thất gì.
Tổn thất mà các rủi ro mang lại tồn tại dưới nhiều dạng khác nhau:
hữu hình (tài sản, vật chất ) hay vô hình (sức khoẻ, tinh thần, trách nhiệm,
đạo đức ).
Nói cách khác, dù được nhìn nhận dưới những góc độ hay hình thái khác
nhau thì rủi ro đều bao hàm trong nó sự bất ngờ, ngoài mong đợi của con
người và gây nên những tổn thất khác nhau đối với các hoạt động mà con
người tham gia.
10
Chuyên đề tốt nghiệp
2. Phân loại rủi ro
7
2.1. Phân loại theo tính chất của rủi ro.
- Rủi ro thuần tuý: loại rủi ro chỉ có thể dẫn đến những tổn thất về mặt kinh
tế hay khả năng kiếm lời của hoạt động.
Rủi ro thuần tuý thường đưa đến kết quả mất mát và tổn thất khi xảy ra.
Như rủi ro hoả hoạn,cháy nổ sẽ dẫn đến việc mất mát một số tài sản nhưng
nếu không xảy ra thì sẽ không gây thiệt hại gì.
Rủi ro thuần tuý liên quan đến việc phá huỷ tài sản,động đất gây phá huỷ
các toà nhà.
Theo đó,rủi ro này có nguyên nhận từ những đe doạ, nguy hiểm rình rập,
và vì vậy nên biện pháp để đối phó với nó chính là hình thức bảo hiểm.
- Rủi ro suy tính: đây là loại rủi ro xảy ra do ảnh hưởng của các nguyên
nhân khó có thể dự đoán và có phạm vi ảnh hưởng rất rộng lớn.
Rủi ro suy tính thường xảy ra trong thực tế như: rủi ro tình hình bất ổn
về chính trị, giá cả hay mức thuế xuất đối với đối tượng được đầu tư.
Đặc điểm cơ bản thường không được bảo hiểm nhưng lại có khả năng
đối phó bằng biện pháp rào chắn.
2.2. Theo khả năng dự đoán
- Rủi ro có thể tính được: loại rủi ro có tần số xuất hiện có thể đoán được ở
mức chính xác và độ tin cậy cao.
- Rủi ro không thể tính được: tần số xuất hiện của loại rủi ro này quá bất
thường và khó để có thể dự đoán.
2.3. Theo khả năng bảo hiểm rủi ro
7
Xem: Khoa đầu tư, ĐH KTQD: Giáo trình quản lý dự án đầu tư, Võ Kim Sơn, Bùi Thế
Vĩnh, Trần Thế Nhuận, Nhà xuất bản Thống Kê, Hà Nội 1996 , tr 270-274.
11
Chuyên đề tốt nghiệp
- Rủi ro không thể bảo hiểm: gồm có rủi ro cờ bạc và suy tính.Các rủi ro
này không tồn tại trước đó trong khi bảo hiểm có tác dụng làm giảm rủi ro.
- Rủi ro có thể bảo hiểm được: những rủi ro nếu xảy ra có thể dẫn đến các
thiệt hại. Nó có khả năng gây thiệt hại của một tập hợp đơn vị tương tự nhau,
thiệt hại có tính ngẫu nhiên không phải do tự tạo ra hay do hiện tượng hao
mòn vật chất tự nhiên gây ra.Các thiệt hại này phải được định dạng, có thể đo
lường và đủ để tạo ra những khó khăn về kinh tế và có xác xuất thiệt hại thảm
hoạ thấp.
2.4. Theo nguồn gốc rủi ro.
- Rủi ro nội sinh: là những rủi ro do những nguyên nhân nội tại của dự án.
Những nhuyên nhân nội sinh thường nhắc đến như: quy mô, mức độ phức tạp,
tính mới lạ của dự án, các nhận tố ảnh hưởng đến tốc độ thiết kế và xây dựng,
hệ thống tổ chức quản lý dự án.
- Rủi ro ngoại sinh: là những rủi ro do những nguyên nhân bên ngoài gây
nên. Những nhân tố ngoại sinh thường gặp là lạm phát, biến đổi thị trường,
tính sẵn xó của lao động và nguyên liệu,độ bất định về chính trị,những ảnh
hưởng của thời tiết.
2.5. Theo phạm vi ảnh hưởng của rủi ro.
- Rủi ro cơ bản: là những rủi ro sinh ra từ những nguyên nhân ngoài tầm
kiểm soát của con người. Hậu quả mà nó mang lại thường rất nghiêm trọng,
khó lường, có ảnh hưởng đến cộng đồng và toàn xã hội.Thường thì hầu hết
các rủi ro này xuất phát từ các tác động tương hỗ thuộc về kinh tế, chính trị,
xã hội
- Rủi ro riêng biệt: rủi ro xuất phát từ biến cố chủ quan và khách quan từ cá
nhân, tổ chức và ảnh hưởng tới lợi ích của từng cá nhân, tổ chức như sai lầm
trong lựa chọn chiến lược kinh doanh, đối tác hay mặt hàng kinh doanh trong
từng thời kì.
12
Chuyên đề tốt nghiệp
2.6. Phân loại rủi ro theo lĩnh vực.
Là cách phân loại rủi ro theo các lĩnh vực của đời sống kinh tế-xã hội.
Các rủi ro có thể phát sinh từ những lĩnh vực khác nhau của cuộc sống: về
chính trị (những thay đổi bất thường của thể chế chính trị), về kinh tế (lạm
phát, suy thoái, ) pháp lý (pháp luật, thủ tục hành chính, các hợp đồng kinh
tế), môi trường kinh doanh, văn hoá khác nhau giữa các nước, sự mất cân đối
về thông tin giữa các bên,…
Cụ thể của các nguyên nhân gây nên rủi ro này sẽ được nói rõ ràng hơn
khi tìm hiểu về một số rủi ro trong các hoạt động của dự án FDI ở mục tiếp
theo.
3. Một số rủi ro trong các hoạt động của dự án FDI
3.1. Rủi ro về chính trị.
Là sự thay đổi bất thường của các thể chế chính trị, chiếm đoạt, quốc
hữu hoá, sự phận biệt đối xử của chính quyền địa phương, Ngoài ra, còn lại
là những tác động của chiến tranh,bạo lực, của các thế lực thế giới.
Rủi ro về chính trị bao hàm những hành động của chính phủ từ quốc hữu
hoá tài sản đến sự thay đổi trong hệ thống thuế làm giới hạn cơ hội kinh
doanh của các nhà đầu tư và thường gây hậu quả nặng nề cho doanh nghiệp.
3.2. Rủi ro về kinh tế.
Thông thường do các nhân tố vĩ mô gây ra bất lợi cho doanh nghiệp.Bao
gồm những yếu tố như lạm phát, suy thoái kinh tế, khă năng thanh toán, dự
trữ ngoại tệ,
3.3. Rủi ro về pháp lý.
Rủi ro về pháp lý có nguồn gốc từ sự thay đổi về luật pháp, sự mập mờ,
chồng chéo và không thống nhất của các văn bản pháp quy; sự thiếu thông tin
phổ biến pháp luật, thiếu chặt chẽ trong các hợp đồng kinh tế,
13
Chuyên đề tốt nghiệp
Loại rủi ro này thường xuất hiện nhiều ở những nước chuyển đổi,những
nước mà nền kinh tế đang trong quá trình từng bước hội nhập,đặc biệt là đối
với Việt Nam. Hậu quả rủi ro pháp lý là những tranh chấp, kiện tụng giữa các
doanh nghiệp, tịch thu hàng hoá của chính quyền,
3.4. Rủi ro về thông tin
Xuất hiện khi những thông tin bị sai lệch, đến chậm hoặc do quá trình
phân tích, xử lý thông tin thường dẫn đến việc chủ đầu tư có sự chậm trễ
trong các quyết định và thất bại trong kinh doanh.
3.5. Rủi ro về cạnh tranh.
Loại rủi ro này là những áp lực bất ngờ không lường trước của chủ đầu
tư trước sự thay đổi thị hiếu của người tiêu dùng, sự tăng nhanh bất thường về
số lượng cũng như quy mô của các doanh nghiệp cùng ngành, sự xâm nhập
mạnh mẽ của doanh nghiệp nước ngoài khi Chính phủ mở cửa kinh tế, Rủi
ro cạnh tranh có thể dẫn tới sự thu hẹp về thị trường, thậm chí dự án còn bị
thôn tính và bị loại ra khỏi thị trường.
3.6. Rủi ro về văn hoá.
Một trong những đặc trưng riêng cơ bản của các dự án FDI là nơi gặp
gỡ,làm quen giữa các nền văn hoá khác nhau.Vì vậy, sự khác nhau về văn hoá
đã và đang là nguyên nhân làm tăng cơ hội hiểu lầm đáng tiếc có thể dẫn công
ty mất thị phần mục tiêu. Rủi ro về văn hoá bắt nguồn từ sự không am hiểu về
phong tục, tập quán, lối sống, cách sống, ngôn ngữ sử dụng
3.7. Rủi ro từ môi trường tự nhiên.
Các yếu tố trên được nhắc đến có tác động mạnh mẽ đến môi trường kinh
doanh nói chung và đến các hoạt động của doanh nghiệp FDI nói riêng. Bên
cạnh đó, còn có một số rủi ro từ việc ra quyết định ( xuất hiện do xác định sai
14
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét