đất đồi núi không có rừng cần phải được khai thác để trồng rừng phòng hộ, rừng
kinh tế, trồng cây công nghiệp dài ngày, ngắn ngày, ngô, khoai sắn tạo thêm
lương thực, vì vậy dự báo đến năm 2020 số diện tích đất chưa sử dụng chỉ còn
306.000 ha.
Là một tỉnh vùng cao, quỹ đất nông nghiệp hạn chế, đặc biệt ruộng nước bình
quân đầu người chỉ có 0,017 ha/người (cả nước là 0,05 ha/người). Hướng tới cần
khai thác hết diện tích đất bằng và một phần đất đồi núi cho sản xuất nông
nghiệp, dự tính quỹ đất để phát triển cây công nghiệp dài ngày như cà phê, chè,
cây ăn quả vẫn còn 22.600 ha, quỹ đất cho đồng cỏ trồng chăn nuôi trên 3.000
ha. Nếu công trình thủy điện Sơn La hoàn thành, sẽ có thêm 13.700 ha mặt nước
hồ. Khi đó toàn tỉnh sẽ có khoảng gần 25.000 ha ao, hồ và hồ sông Đà là tiền đề
để Sơn La phát triển mạnh nuôi trồng và khai thác thủy sản.
2. Khí hậu, thuỷ văn
Sơn La có khí hậu nhiệt đới gió mùa vùng núi, mùa đông lạnh khô, mùa
hè nóng ẩm mưa nhiều. Địa hình bị chia cắt sâu và mạnh hình thành nhiều tiểu
vùng khí hậu cho phép phát triển một nền sản xuất nông - lâm nghiệp phong
phú. Vùng Cao nguyên Mộc Châu rất phù hợp với cây trồng và con nuôi vùng
ôn đới. Vùng dọc sông Đà phù hợp với cây rừng nhiệt đới xanh quanh năm,…
Những năm gần đây nhiệt độ không khí trung bình/năm có xu hướng tăng
hơn 20 năm trước đây từ 0,5
0
C - 0,6
0
C (Thị xã Sơn La từ 20,9
0
C lên 21,1
0
C Yên
Châu từ 22,6
0
C lên 23
0
C) lượng mưa trung bình năm có xu hướng giảm: Thị xã
từ 1.445 mm xuống 1.402 mm, Mộc Châu từ 1.730 mm xuống 1.563 mm; độ ẩm
không khí trung bình năm cũng giảm, hiện tại ở Thị xã độ ẩm không khí trung
bình cả năm là 82%, Yên Châu 80%; số ngày có gió Tây khô nóng trung bình
năm tăng lên: Thị xã từ 1,27 ngày tăng lên 4,3 ngày, Yên Châu từ 34 ngày tăng
lên 37,2 ngày.
Do tình hình khô hạn kéo dài vào mùa đông nên khó tăng vụ trên diện tích
canh tác, cộng với gió Tây khô nóng vào những tháng cuối mùa khô đầu mùa
mưa (tháng 3 – 4) đã gây không ít khó khăn cho sản xuất và đời sống của một số
vùng trong tỉnh. Sương muối, mưa đá, lũ quét cũng là những nhân tố gây bất lợi
cho sản xuất, đời sống.
Trong thời gian tới khi có thuỷ điện Sơn La, hệ thống hồ dọc Sông Đà
được hình thành có thể tình hình khí hậu khô nóng vào mùa khô sẽ được cải
thiện theo hướng có lợi cho sản xuất và đời sống.
Nước: Sơn La có hệ thống sông suối khá dầy nhưng phần lớn mặt nước
thấp hơn mặt đất canh tác, vì vậy biện pháp giải quyết nước là phải làm hồ chứa,
đập dâng cắt lũ mùa mưa, chứa nước mùa khô, ống dẫn, bơm điện, khai thác
nước ngầm và tăng tỷ lệ che phủ của rừng để ổn định nguồn sinh thuỷ… Song,
với địa hình khó khăn hiểm trở, phức tạp đòi hỏi vốn đầu tư xây dựng cao.
5
Sông suối ở Sơn La có độ dốc lớn, trắc diện hẹp nên tiềm năng thuỷ điện
khá lớn. Hầu hết mọi nơi trong tỉnh đều có điều kiện làm thuỷ điện cực nhỏ,
ngoài 96 điểm xây dựng được thuỷ điện vừa và nhỏ với tổng công suất 134 MW
còn có công trình thuỷ điện Suối Sập 11,8 MW, thuỷ điện Nậm Chiến công suất
210 MW, thuỷ điện Huổi Quảng công suất 540 MW và đặc biệt là công trình
thuỷ điện Sơn La với công suất 2.400 MW đang được khởi công xây dựng góp
phần to lớn vào sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Sơn La thời kỳ
2005 - 2010 và 2020.
3. Tài nguyên rừng
Sơn La là một trong những tỉnh có diện tích rừng và đất có khả năng phát
triển lâm nghiệp khá lớn (chiếm 73% diện tích tự nhiên), đất đai phù hợp với
nhiều loại cây, có điều kiện xây dựng hệ thống rừng phòng hộ và tạo các vùng
rừng kinh tế hàng hoá có giá trị cao. Rừng Sơn La có nhiều thực vật quý hiếm,
có các khu đặc dụng có giá trị nghiên cứu khoa học và phục vụ du lịch, sinh thái
trong tương lai.
Đến năm 2005 diện tích rừng của Sơn La chỉ còn 577.638,09 ha, trong đó
rừng sản xuất 47.856,69 ha, rừng phòng hộ 482.980,42. Độ che phủ của rừng đạt
41% (so với toàn quốc là 40%, như vậy độ che phủ của rừng Sơn La còn thấp so
với yêu cầu và đặc điểm của một vùng đất dốc núi cao, mưa lớn và tập trung
theo mùa, lại có vị trí là mái nhà phòng hộ cho đồng bằng Bắc Bộ, điều chỉnh
nguồn nước cho thuỷ điện Hoà Bình…
Sơn La có 4 khu rừng đặc dụng bảo tồn thiên nhiên: Xuân Nha (Mộc Châu)
27.084 ha; Sốp Cộp 18.709 ha; Copi A (Thuận Châu) 19.354 ha; Tà Xùa (Bắc
Yên) 17.650 ha.
Về trữ lượng rừng: Theo số liệu kiểm kê của Đoàn điều tra quy hoạch và
phát triển nông thôn tỉnh Sơn La, toàn tỉnh có 16,5 triệu m
3
gỗ và 203,3 triệu cây
tre nứa, chủ yếu là rừng tự nhiên, còn đối với rừng trồng chỉ có trữ lượng gỗ 154
ngàn m
3
và 220 ngàn cây tre nứa.
Toàn tỉnh có 543.043,67 ha đất chưa sử dụng (chiếm 38,45% tổng diện
tích tự nhiên), trong đó đất có khả năng phát triển nông lâm nghiệp khoảng
440.719 ha (phần lớn dùng cho phát triển lâm nghiệp). Đây cũng là nguồn tài
nguyên quý giá, một thế mạnh cho phát triển kinh tế - xã hội của Tỉnh giai đoạn
2006-2020.
Khi có thuỷ điện Sơn La sẽ có 1 phần rừng và đất rừng bị ngập, theo tính
toán có khoảng 2.451 ha rừng sẽ bị ngập, trong đó chủ yếu là rừng phòng hộ.
Nhiệm vụ quan trọng là phải tận thu cây trong lòng hồ trước khi nước ngập và
sau đó là trồng rừng phòng hộ dọc theo 2 bên sông Đà và toàn lưu vực để bảo vệ
nguồn nước cho công trình thuỷ điện quan trọng này.
6
4. Khoáng sản
Sơn La có nhiều loại khoáng sản khác nhau (gần 150 điểm), song chủ yếu
là mỏ nhỏ, phân bố rải rác trên khắp địa bàn tỉnh, trữ lượng không lớn và điều
kiện khai thác không thuận lợi.
+ Than: Có đủ các loại than mỡ, than gầy, than bùn, than nâu, tổng số
trên 10 mỏ và điểm than nhiên liệu với trữ lượng tiềm năng trên 40 triệu tấn,
trong đó trữ lượng đã thăm dò trên 3 triệu tấn. Tuy trữ lượng không lớn nhưng
trên dưới 50% là than mỡ, có khả năng luyện cốc, loại than mà hiện nay nước ta
rất thiếu và phải nhập khẩu với giá cao.
Các mỏ than tương đối lớn ở Sơn La có mỏ than Suối Bàng - Mộc Châu
(trữ lượng vài triệu tấn), mỏ than Quỳnh Nhai (trữ lượng 578 ngàn tấn), mỏ than
Hang Mon - Yên Châu (trữ lượng 1 triệu tấn), mỏ than Mường Lựm - Yên Châu
(trữ lượng trên 80 ngàn tấn), mỏ than Suối Lúa - Phù Yên… dự kiến sản lượng
khai thác trong vài năm tới đạt 2-3 vạn tấn than/năm và ngoài năm 2000 nâng lên
20-25 vạn tấn than/năm, để dần dần thay thế việc phải đưa than từ Quảng Ninh
lên vùng Tây Bắc.
+ Nguồn đá vôi và sét: Với trữ lượng khá lớn, phân bố tương đối rộng,
đang được khai thác, cho phép phát triển mạnh sản xuất xi măng, gạch ngói
phục vụ nhu cầu trong tỉnh và xây dựng công trình thủy điện Sơn La. Đáng kể
có mỏ sét xi măng Nà Pó trữ lượng 16 triệu tấn, mỏ sét xi măng Chiềng Sinh trữ
lượng 760 ngàn tấn.
+ Ni ken-đồng có 8 điểm quặng và mỏ: Bản Mông, Bản Khoa, Bản Phúc,
Bản Chang, Vạn Sài, Suối Ba, Suối Đơn và Hua Păng. Song đáng kể là mỏ Bản
Phúc huyện Bắc Yên có trữ lượng 984.000 tấn quặng với hàm lượng ni ken
3,55%, đồng 1,3%. Đã có dự án khả thi liên doanh với các Công ty tài nguyên
khoáng sản nước ngoài, thời gian khai thác 13 năm với tổng lợi nhuận thu được
60,52 triệu USD và giá trị lãi ròng bình quân/năm từ 1,3 đến 1,56 triệu USD.
+ Vàng: Có 4 mỏ sa khoáng và 3 điểm vàng gốc đều thuộc loại mỏ nhỏ
C1 + C2 < 500 kg, có triển vọng là mỏ vàng sa khoáng Pi Toong huyện Mường
La, Mu Lu huyện Mai Sơn. Cần khuyến khích và thu hút đầu tư, tranh thủ công
nghệ tiên tiến nhằm khai thác hiệu quả nguồn tài nguyên này.
+ Bột tan có nhiều điểm mỏ, đáng kể là mỏ tan Tà Phù huyện Mộc Châu
có trữ lượng 2,3 vạn tấn, có giá trị xuất khẩu và tiêu dùng trong nước.
5. Tiềm năng du lịch
Sơn La có điều kiện phát triển du lịch thuận lợi do có nhiều danh lam
thắng cảnh, hang động kỳ thú, các mỏ suối nước khoáng nóng, vùng hồ Sông
Đà, các di tích lịch sử cách mạng như Nhà tù Sơn La, cây đa bản Hẹo, Văn bia
Quế lâm ngự chế Có thể kết hợp với các tỉnh bạn để phát triển du lịch sinh
thái, du lịch lịch sử, du lịch văn hoá… Đặc biệt có triển vọng là phát triển tour
7
du lịch Mộc Châu và thuỷ điện Sơn La - công trình thuỷ điện lớn nhất cả nước.
Sau khi thuỷ điện được hoàn thành, đập và hồ thuỷ điện chắc chắn sẽ là nơi
tham quan, du lịch lý tưởng cho nhiều du khách.
Như vậy sắp tới trên địa bàn tỉnh Sơn La có hồ thuỷ điện Sơn La, cùng
với 4 vườn quốc gia (Khu bảo tồn thiên nhiên Xuân Nha-Mộc Châu, Khu bảo
tồn thiên nhiên Sốp Cộp, Khu bảo tồn thiên nhiên Co Mạ-Thuận Châu, Tà Xùa -
Bắc Yên), còn có 4 hang động được xếp hạng, 4 mỏ nước nóng, có nhiều bản
làng văn hoá dân tộc, có các lễ hội dân tộc như: lễ hội mùa xuân dân tộc Mông
huyện Mộc Châu; Hội Then dân tộc Thái huyện Quỳnh Nhai, Thuận Châu, Yên
Châu; Lễ hội cầu mùa dân tộc Khơ Mú huyện Yên Châu; Lễ Mởi dân tộc
Mường huyện Phù Yên… đều có thể khai thác để phục vụ du lịch.
III. Nguồn nhân lực
Ngoài các yếu tố tự nhiên, yếu tố nguồn nhân lực có vai trò quyết định
đến sự phát triển kinh tế - xã hội.
Dân số trung bình toàn Tỉnh Sơn La năm 2004 có: 975.994 người, dân số
năm 2005 khoảng 992.700 người, mật độ bình quân 70 người/km
2
, trong đó nam
là 498.137 người (chiếm 50,18%), nữ 494.563 người (chiếm 49,82%). Dân số
khu vực thành thị chiếm 12%; dân số khu vực nông thôn chiếm 88% tổng số dân
toàn tỉnh. Tốc độ tăng dân số tự nhiên năm 2004 là 1,75%/năm, năm 2005
khoảng 1,69% (chủ yếu là tăng dân số cơ học do sức hút của Thuỷ điện Sơn La).
Tốc độ tăng dân số bình quân giai đoạn 2000 – 2004 ở mức 1,85%.
Chương trình dân số, kế hoạch hoá gia đình quốc gia trên địa bàn tỉnh đã
góp phần quan trọng cải thiện chất lượng dân số, giảm thiểu chất lượng tăng dân
số trong những năm gần đây.
Toàn tỉnh có 12 Dân tộc anh em (là tỉnh có nhiều dân tộc thiểu số), trong đó
dân tộc Thái chiếm có dân số lớn nhất, chiếm gần 55% dân số toàn tỉnh. Các dân
tộc có dân số đông tiếp theo là dân tộc Kinh 18%, dân tộc Mông 12%, dân tộc
Mường 8,4%, dân tộc Dao 1,82%, dân tộc Khơ Mú 1,89% Nhìn chung đời
sống vật chất, tinh thần của đại bộ phận nhân dân được cải thiện đáng kể. Phong
tục tập quán của các dân tộc được bảo tồn và phát huy cùng với việc du nhập các
giá trị văn hoá mới, hiện đại. Các hủ tục lạc hậu, mê tín dị đoan… đang dần
được xoá bỏ.
Lao động trong độ tuổi năm 2005 khoảng 524.950 người, chiếm 52,8% dân
số toàn tỉnh, trong đó nam là 293.447 người, nữ là 231.503 người. Bình quân
hàng năm, lực lượng lao động của Tỉnh tăng thêm khoảng 2 vạn người. Lao
động thành thị 88.769 người chiếm tỷ lệ 16,91%, lao động nông thôn 436.181
người chiếm tỷ lệ 83,09% tổng số lao động toàn tỉnh. Theo ngành kinh tế, lao
động trong nông nghiệp vẫn chiếm trên 85% tổng số lao động trong các ngành
kinh tế; lao động trong ngành công nghiệp vẫn chiếm tỷ lệ thấp. Chất lượng
nguồn lao động đã được nâng cao đáng kể, tỷ lệ lao động qua đào tạo đến năm
8
2004 đạt khoảng 11%. Trong số lao động được đào năm 2004 có bằng cấp trên
10.000 người trong đó: trình độ trên đại học 52 người, đại học cao đẳng 5.521
người, trung học và đào tạo nghề 4.427 người; ngoài ra lao động có trình độ lao
động phổ thông 250.000 người.
Tỷ lệ lao động chưa giải quyết được việc làm đến năm 2004 chỉ còn
4,29%, là mức khá thấp so với bình quân cả nước. Như vậy, số người cần việc
làm trong thời gian tới của Tỉnh không phải là sức ép lớn, vấn đề quan trọng là
đào tạo và đào tạo lại lực lượng lao động để chuyển đổi cơ cấu kinh tế, tuyển
dụng nhân công.
Dự báo tăng dân số tự nhiên:
Giả thiết rằng, tỷ lệ tăng tự nhiên dân số của tỉnh trong giai đoạn 2006-
2015 cao hơn trung bình cả nước, do đặc điểm miền núi, nhưng sẽ giảm dần tiến
tới tốc độ tăng như cả nước. Hiện nay, do người dân chưa hiểu rõ chính sách dân
số mới, dẫn đến tỷ lệ sinh cao, tỷ lệ tăng tự nhiên giảm chậm hơn những năm
1990-2000, dự kiến trong giai đoạn 2006-2015 là 0,014-0,015%/năm. Trong giai
đoạn 2016-2020, tỷ lệ tăng tự nhiên có xu hướng giảm nhanh hơn, dự kiến là
0,026%, do biến đổi cơ cấu dân số, tỷ trọng người cao tuổi ngày một tăng.
Biểu 2. Dự báo tăng dân số và lao động tự nhiên
Dân số
(1000 người)
Dân số trong độ tuổi LĐ
(1000 người)
Lao động/dân số
(%)
2005 992,7 524,95 52,8
2010 1.088 592,4 54,4
2015 1.165 660,9 56,7
2020 1.248 726,6 58,2
Giả thiết rằng tốc độ tăng lực lượng lao động thời kỳ 2006-2020 xấp xỉ tốc
độ tăng dân số trong thời kỳ 1990-2005 do dân số sinh ra trong giai đoạn 1991-
1995 sẽ trở thành lao động trong giai đoạn 2006-2010, tương ứng dân số giai
đoạn 2001-2005 sẽ trở thành lao động giai đoạn 2016-2020. Bên cạnh đó, một
phần lao động và những người đi theo xây dựng công trình thuỷ điện Sơn La sẽ ở
lại cũng đóng góp vào lực lượng lao động, bởi chủ yếu là những người trẻ, trong
độ tuổi lao động. Cùng với việc loại trừ một bộ phận trẻ sinh ra không phát triển
lên lực lượng lao động, một phần nguồn nhân lực đi học, thoát ly không quay trở
lại Sơn la, có thể coi tốc độ tăng lực lượng lao động trời kỹ 2006 – 2020 xấp xỷ
tốc độ tăng dân số thời kỳ 1990 – 2005. Theo số thống kê, tốc độ tăng dân số
1991-1995 là 2,92%; 1996-2000 là 2,21%; 2001-2005 là 1,91%. Như vậy có thể
giả thiết, tốc độ tăng lao động giai đoạn 2006-2010 là 2,88%; 2011-2005: 2,19%
và 1,90% trong giai đoạn 2016-2020.
Dự báo tăng dân số cơ học:
Theo tiến độ xây dựng công trình thuỷ điện Sơn La thì thời kỳ cao điểm số
lượng lao động ở đây có thể lên đến 10.000 người, nếu kể cả số người đi theo thì
số dân tăng cơ học này có thể tới 20 ngàn người. Lúc này mọi dịch vụ, ăn, ở, đi
9
lại, việc làm… cần phải được đáp ứng ngay trong thời kỳ xây dựng thuỷ điện và
cả khi thuỷ điện đã hoàn thành vẫn còn một lực lượng không nhỏ có thể ở lại sinh
sống, lao động tại Sơn La (có ý kiến cho rằng khoảng 2 nghìn người sẽ ở lại).
Đại bộ phận nhân dân các dân tộc Sơn La sống ở nông thôn với nghề nông
là chủ yếu, vốn là những người cần cù lao động.
Trình độ dân trí nhìn chung còn thấp và đang từng bước được nâng lên,
trên 80% trẻ em trong độ tuổi 6 -14 được phổ cập giáo dục tiểu học, trên 90%
người lao động ở độ tuổi từ 15 - 35 tuổi được công nhận xoá mù chữ. Kết quả
tuyển sinh vào các trường đại học, cao đẳng, trung học và công nhân kỹ thuật
trong 10 năm qua được hơn 2 vạn người, hàng vạn lao động được chuyển giao kỹ
thuật sản xuất dạy nghề, hàng nghìn cán bộ được đào tạo lại về lý luận quản lý
kinh tế, quản lý nhà nước, đặc biệt tập trung mạnh cho đào tạo cán bộ xã, phường.
Số lao động có tri thức ngày càng được phát triển đã và đang tiếp cận với điều
kiện mới của nền kinh tế thị trường, có những đóng góp đáng kể cho sự phát
triển kinh tế - xã hội của Tỉnh.
Một vấn đề quan trọng khác là phải di dân khỏi lòng hồ thuỷ điện. Đây là
một nhiệm vụ vô cùng to lớn. Ngay từ năm 1998, Bộ Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn phối hợp với Tổng công ty điện lực Việt Nam và UBND của 3 tỉnh Sơn
La, Điện Biên và Lai Châu đã điều tra thống kê thiệt hại của Dự án thuỷ điện Sơn
La theo các phương án tuyến và quy mô công trình. Quy hoạch tổng thể di dân,
tái định cư dự án thuỷ điện Sơn La đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại
Quyết định số 196/2004/QĐ-TTg ngày 29 tháng 11 năm 2004. Theo Quy hoạch
này thì số hộ trên địa bàn Sơn La cần phải di chuyển cho xây dựng thủy điện Sơn
La là 12.500 hộ. Bên cạnh đó, các thủy điện Nậm Chiến, Huổi Quảng, có công
suất khá lớn từ 200 - 540MW đang trong giai đoạn khởi công cũng đòi hỏi việc di
dân, tái định cư. Đây thực sự là một công việc đồ sộ đối với tỉnh từ nay đến 2010.
10
Phần thứ hai
Thực trạng phát triển kinh tế - xã hội Tỉnh Sơn La đến năm 2005
I. Một số chỉ tiêu kinh tế tổng hợp
1. Tốc độ tăng trưởng GDP
Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) trên địa bàn tỉnh Sơn La năm 2004 đạt
1.836 tỷ đồng (giá 1994), tăng 1,5 lần so với năm 2000. Tốc độ tăng trưởng kinh
tế toàn tỉnh năm 2004 đạt 14,21%.
Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân/năm thời kỳ 1996 - 2000 là
9,15%/năm, thời kỳ 2001 - 2004 là: 10,6%/năm (cả nước là 7,05%/năm). Năm
2005 phấn đấu đạt 16% (bình quân giai đoạn 2001 - 2005 đạt 11,65%/năm, cao
hơn mức kế hoạch 9-10%/năm trong quy hoạch tổng thể giai đoạn 2001-2010).
Như vậy tốc độ tăng trưởng bình quân giai đoạn sau cao hơn giai đoạn trước,
chủ yếu do sự tăng trưởng mạnh của khối ngành công nghiệp - xây dựng, giai
đoạn 2001 – 2005 bình quân ngành công nghiệp – xây dựng tăng trưởng
27,2%/năm. Năm 2004, tốc độ tăng ngành công nghiệp đạt 42,59%, một mức tăng
trưởng rất cao, năm 2005 đạt 32,42%.
Biểu 3. Tăng trưởng kinh tế toàn tỉnh giai đoạn 1996 - 2005
Chỉ tiêu
Đơn
vị
1995 2000 2004 2005
Nhịp độ tăng
trưởng
96-2000 01-2005
GDP (giá 94) Tr.đ 791.000 1.226.266 1.836.000 2.135.000 9,15 11,65
- NN Tr.đ 558.000 760.212 920.000 981.000 6,37 5,1
- CN+XD Tr.đ 78.000 129.314 326.000 447.000 10,68 27,2
- Dịch vụ Tr.đ 155.000 336.740 590.000 707.000 16,73 16,5
GDP (giá hh) Tr.đ 1.039.000 1.838.000 3.428.000 4.319.700
Cơ cấu: % 100 100 100 100
- NN % 71,5 60,96 47,99 45
- CN+XD % 9,75 9,49 17,51 19
- Dịch vụ % 18,75 29,55 34,5 36
Nguồn: Cục Thống kê tỉnh Sơn La.
Giá trị gia tăng nông-lâm nghiệp, thuỷ sản thời kỳ 2001-2004 tăng bình
quân 4,85%/năm, thấp hơn nhiều so với mức 6,37%/năm của giai đoạn 1996 –
2000. Năm 2005 tăng 6,01%, tăng bình quân giai đoạn 2001 - 2005 đạt
11
5,1%/năm. Mức tăng trưởng cao nhất của ngành trong cả giai đoạn là 14,10%
(năm 1995), đây là một mức cao kỷ lục.
Giá trị gia tăng công nghiệp - xây dựng, thời kỳ 2001-2004 tăng bình quân
xấp xỉ 25,95%/năm, cao gấp xấp xỉ 2,5 lần tốc độ tăng trưởng GDP bình quân
của nền kinh tế. Tuy nhiên, trong thời kỳ 1996 – 2000, ngành công nghiệp – xây
dựng tăng trưởng chậm, có năm chỉ tăng trưởng 1,8% (năm 1995), năm 1999
cũng chỉ tăng trưởng 5,99%. Nguyên nhân chủ yếu là thời kỳ này tỉnh chưa xây
dựng được các ngành công nghiệp mũi nhọn, có giá trị gia tăng cao. Năm 2005
tăng 32,42%, bình quân tăng giai đoạn 2001 - 2005 tăng 27,2%/năm.
Giá trị gia tăng ngành dịch vụ thời kỳ 2001-2004 tăng trưởng bình quân
15,07%/năm, cao gấp 1,4 lần tốc độ tăng trưởng bình quân của GDP toàn tỉnh
nhưng thấp hơn mức tăng bình quân 16,73%/năm của giai đoạn 1996 – 2000. Năm
2005 tăng 22,49%, bình quân giai đoạn 2001 - 2005 tăng 16,5%/năm. Trong 3
khối ngành thì ngành dịch vụ có mức tăng trưởng ổn định nhất trong suốt giai đoạn
từ năm 1995 đến nay. Năm 2004 tổng sản phẩm trong tỉnh đạt 3.428 tỷ đồng (giá
hiện hành).
Năm 2005 tốc độ tăng trưởng GDP đạt 16,0%; cơ cấu ngành nông, lâm
nghiệp thuỷ sản chiếm 45,0%; ngành công nghiệp xây dựng chiếm 19%; ngành
Dịch vụ chiếm 36%.
Số liệu trên cho thấy tốc độ tăng trưởng GDP của Sơn La giai đoạn 2001 -
2005 cao hơn giai đoạn trước, phù hợp với xu thế phát triển của cả nước nói
chung và của cả vùng Tây Bắc nói riêng. Nền kinh tế của tỉnh những năm gần
đây có tốc độ tăng trưởng khá và ổn định, năm sau đều cao hơn năm trước, trong
đó khối dịch vụ tăng khá, khối công nghiệp và xây dựng tăng mạnh.
2. GDP bình quân đầu người
Do tốc độ tăng trưởng kinh tế khá và ổn định nên GDP bình quân đầu
người tăng đều qua các năm. Năm 1995 đạt 1.279.140 đồng/người (tương ứng
115 USD), năm 2000 tăng lên 2.202.878 đồng/người (142 USD), năm 2004 đạt
3.516.000 đồng/người (225 USD-giá hiện hành).
So với GDP bình quân đầu người cả nước tương ứng các năm là 286
USD/người (năm 1995), 398 USD (năm 2000) và 545 USD (năm 2004) thì Sơn
La vẫn còn thua kém nhiều (khoảng xấp xỉ 40% bình quân cả nước), xu hướng
tăng nhanh hơn để thu hẹp khoảng cách là chưa rõ và chưa vững. Năm 2004,
GDP bình quân đầu người cả nước đạt 545 USD. Như vậy năm 2004, GDP bình
quân đầu người của Sơn La chỉ xấp xỉ bằng 41,5% GDP bình quân cả nước.
Năm 2005 phấn đấu thu nhập bình quân đầu người tỉnh Sơn La đạt 4.150.000
đồng (khoảng 258 USD). Mặc dù so với cả nước, GDP toàn tỉnh vẫn còn thấp
song đời sống của đại bộ phận nhân dân đã được cải thiện đáng kể.
12
Chương trình quốc gia xóa đói giảm nghèo và giải quyết việc làm trên địa
bàn Tỉnh đã có những đóng góp nhất định vào việc nâng cao đời sống vật chất
tinh thần của nhân dân, xóa đói giảm nghèo. Tổng vốn đầu tư cho chương trình
xóa đói giảm nghèo 5 năm 2001 – 2005 đạt 65.439 triệu đồng, trong đó vốn
ngân sách Trung ương hỗ trợ đầu tư 49.246 triệu đồng. Trong 5 năm đã xoá
được hơn 10.000 nhà tạm; hơn 21.000 hộ thoát khỏi đói nghèo, giảm tỷ lệ hộ
nghèo từ 20% (năm 2001) xuống còn 11,5% ( năm 2005 - theo tiêu chí cũ).
Tuy nhiên, sự chênh lệch về mức sống giữa các địa bàn dân cư trong Tỉnh
vẫn còn lớn và có nguy cơ doãng ra. ở các xã đặc biệt khó khăn (chiếm khoảng
35% dân số toàn tỉnh), mức thu bình quân đầu người chỉ đạt khoảng 1.000.000
đồng - 1.200.000 đồng/năm, chỉ bằng khoảng trên 30% mức thu nhập bình quân
toàn Tỉnh. Như vậy, 35% dân số Tỉnh ở các xã đặc biệt khó khăn chỉ nắm giữ
xấp xỉ 14% thu nhập của tỉnh, 65% dân số còn lại nắm giữ trên 86% thu nhập
toàn tỉnh.
3. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Trong những năm gần đây, cơ cấu kinh tế toàn tỉnh đã có bước chuyển
dịch quan trọng, đúng hướng, phù hợp với đường lối phát triển kinh tế của đất
nước trong xu hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Tỷ trọng công nghiệp - xây
dựng và dịch vụ trong GDP toàn tỉnh tăng dần, đồng thời tỷ trọng nông nghiệp
trong GDP có xu hướng giảm xuống.
- Nông - Lâm nghiệp, Thuỷ sản: Thời kỳ 1996 – 2000, GDP ngành nông – lâm
nghiệp, thuỷ sản tăng bình quân 6,37%/năm, thời kỳ 2000-2004 tăng bình quân
4,87%/năm. Tuy nhiên, tốc độ tăng trưởng trên đều thấp hơn tốc độ tăng trưởng bình
quân của nền kinh tế. Vì vậy, tỷ trọng GDP của ngành giảm từ 71,5% (năm 1995)
xuống 60,96% (năm 2000) và đạt 47,99% năm 2004; năm 2005 giảm còn 45%, tuy
nhiên giá trị tuyệt đối của ngành vẫn tăng đều.
- Công nghiệp - xây dựng: Thời kỳ 1996 – 2000, ngành công nghiệp của tỉnh
phát triển chậm, tốc độ tăng trưởng không cao, chỉ giao động trong khoảng 9% đến
10%. Sang thời kỳ 2001 – 2004, ngành công nghiệp – xây dựng có bước phát triển
mạnh, tốc độ tăng trưởng luôn ở mức cao nên tỷ trọng GDP của ngành tăng từ
9,49% (năm 2000) lên 17,51% năm 2004, năm 2005 tăng lên 19%.
- Dịch vụ: Trong suốt giai đoạn 1996 – 2004, ngành dịch vụ luôn tăng trưởng
mạnh và ổn định, thời kỳ 1996 – 2000, GDP dịch vụ tăng bình quân 16,73%/năm,
thời kỳ 2001 - 2004 tăng bình quân 15,07%/năm. Với đà tăng trưởng đó, tỷ trọng
GDP ngành dịch vụ trong cơ cấu kinh tế toàn tỉnh vẫn tăng đều qua hàng năm, tăng
từ 18,75% (năm 1995) lên 29,55% (năm 2000) và đạt 34,5% năm 2004, năm 2005
tăng lên 36%.
13
Số liệu trên cho thấy cơ cấu kinh tế tỉnh Sơn La đã có sự chuyển biến
mạnh mẽ trong các năm qua, cơ cấu kinh tế chuyển dịch từ kinh tế thuần nông tự
cấp, tự túc sang sản xuất hàng hoá gắn với thị trường. Tuy vậy ngành nông lâm
nghiệp vẫn chiếm tỷ trọng cao, tỷ trọng ngành công nghiệp tăng không vững
chắc và còn rất thấp, dịch vụ và các ngành khác tăng nhanh hơn.
4. Kinh tế đối ngoại
4.1. Xuất nhập khẩu
Tổng giá trị xuất khẩu trên địa bàn tỉnh Sơn La năm 1995 là 1,02 triệu
USD, năm 2000 đạt 3,103 triệu USD, năm 2004 đạt 11 triệu USD, năm 2005 đạt
14 triệu USD, giai đoạn 1996 - 2000 tăng bình quân 25%/năm; giai đoạn 2001 -
2004 tăng bình quân năm 41,55%/năm, ước giai đoạn 2001 - 2005 tăng bình
quân 38,6%/năm. Xu hướng tăng giá trị xuất khẩu trong giai đoạn 2001 – 2005
diễn ra đều đặn và tương đối rõ trong tất cả các năm, tốc độ tăng bình quân cao
hơn giai đoạn 1995 - 2000. Mặt hàng xuất khẩu chủ yếu là đường kết tinh, cà
phê, chè, ngô hạt.
Hàng hoá nhập khẩu đã thay đổi dần cơ cấu, giai đoạn 1996 - 2000 hàng
hoá nhập khẩu chủ yếu là phương tiện đi lại và hàng hoá tiêu dùng, từ năm 2000
trở lại đây hàng hoá nhập khẩu đã phong phú thêm ngoài một số mặt hàng tiêu
dùng còn nhập các thiết bị dây chuyền sản xuất đồng bộ phục vụ cho sản xuất
công nghiệp, phương tiện vận tải chiếm một tỷ trọng cao trong tổng giá trị nhập
khẩu hàng năm. Tổng giá trị nhập khẩu trên địa bàn tỉnh Sơn La năm 1995 là
3,464 triệu USD đến năm 2000 giảm xuống còn 2,15 triệu USD, năm 2004 đạt
4,5 triệu USD; giai đoạn 2000 - 2004 tăng bình quân 20,25%/năm song mức
tăng giảm là không đều. Năm 2005 đạt khoảng 5,0 triệu USD.
Năm 2005 giá trị xuất khẩu bình quân đầu người của tỉnh Sơn La đạt xấp
xỉ 14,02 USD/người/năm, giá trị nhập khẩu bình quân đạt xấp xỉ 5 USD/người.
Tổng giá trị xuất, nhập khẩu qua các năm biến động mạnh, tăng giảm
không đều. Năm 2001, tổng giá trị xuất nhập khẩu đạt 6,6 triệu USD, đã giảm
xuống còn 4,8 triệu USD vào năm 2002 và tăng lên 15,5 triệu USD năm 2004.
Tỷ lệ giá trị xuất nhập khẩu/GDP (tính theo giá hiện hành) đạt thấp: đạt 4,7%
năm 1995, giảm xuống 2,7% năm 2000 và và tăng lên 6,9% năm 2004, chứng tỏ
"độ mở" của nền kinh tế tỉnh Sơn La là rất thấp và thiếu ổn định.
Biểu 4. Kết quả xuất nhập khẩu 1995 – 2004
Đơn vị: Nghìn USD
Chỉ tiêu 1995 2000 2004 2005
I. Xuất khẩu 1.020 3.103 11.000 14.000
14
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét