- Tiền lơng là bộ phận cơ bản ( hoặc duy nhất) trong thu nhập của ngời
lao động, đồng thời là một trong các yếu tố chi phí đầu vào của sản xuất kinh
doanh của các doanh nghiệp.
Để đáp ứng đợc những yêu cầu trên thì tiền lơng đợc hiểu là biểu hiện
bằng tiền của giá trị sức lao động, là giá của yếu tố sức lao động mà ngời sử
dụng (nhà nớc, chủ doanh nghiệp) phải trả cho ngời cung ứng sức lao động,
tuân theo các nguyên tắc cung-cầu, gía cả của thị trờng và pháp luật hiện
hành của Nhà nớc.
Quan hệ cung ứng và sử dụng lao động tuỳ thuộc từng quốc gia và tùy
từng giai đoạn phát triển của kinh tế-xã hội mà có những chính sách phù hợp
nhất định. Nhng bản chất của lao động- tiền lơng trong các quan hệ đó là
thống nhất với khái niệm đã nêu ở trên. Nền kinh tế thị trờng càng phát triển
và đợc xã hội hóa cao thì quan hệ cung ứng và sử dụng sức lao động trên tất
cả các lĩnh vực càng trở nên linh hoạt hơn, tính chất xã hội hóa của lao động
ngày càng cao hơn, tiền lơng trở thành nguồn thu nhập duy nhất, là mối quan
tâm và động lực lớn nhất với mọi đối tợng cung ứng sức lao động.
Cũng với khái niệm trên, tiền công chỉ là một biểu hiện, một tên gọi
khác của tiền lơng. Tiền công gắn trực tiếp hơn với các quan hệ thỏa thuận,
mua bán sức lao động và thờng đợc sử dụng trong lĩnh vực sản xuất- kinh
doanh, các hợp đồng thuê lao động có thời hạn. Tiền công còn đợc hiểu là
tiền trả cho một đơn vị thời gian lao động cung ứng, tiền trả theo khối lợng
công việc đợc thực hiện phổ biến trong những thỏa thuận thuê nhân công trên
thị trờng tự do và có thể gọi là giá công lao động. Trong những nền kinh tế
thị trờng, khái niệm tiền lơng và tiền công đợc xem là đồng nhất cả về bản
chất kinh tế, phạm vi và đối tợng áp dụng. Nhng ở các nớc đang chuyển từ
nền kinh tế mệnh lệnh sang kinh tế thị trờng, khái niệm tiền lơng thờng đợc
5
gắn với chế độ tuyển dụng suốt đời, hoặc một thỏa thuận hợp đồng sử dụng
lao động dài hạn, ổn định.
Trong bất cứ doanh nghiệp nào cũng cần sử dụng một lực lợng lao
động nhất định tuỳ theo quy mô, yêu cầu sản xuất cụ thể. Chi phí về tiền lơng
là một trong các yếu tố chi phí cơ bản cấu thành nên giá trị sản phẩm do
doanh nghiệp sản xuất ra. Vì vậy, sử dụng hợp lý lao động cũng chính là tiết
kiệm chi phí về lao động sống (lơng), do đó góp phần hạ thấp giá thành sản
phẩm, tăng doanh lợi cho doanh nghiệp và là điều kiện để cải thiện, nâng cao
đời sống vật chất tinh thần cho công nhân viên, cho ngời lao động trong
doanh nghiệp.
Tiền lơng không phải là vấn đề chi phí trong nội bộ từng doanh nghiệp
thu nhập đối với ngời lao động mà còn là một vấn đề kinh tế - chính trị - xã
hội mà Chính phủ của mỗi quốc gia cần phải quan tâm.
1.2.2. Các hình thức trả tiền lơng
Trong các doanh nghiệp ở các thành phần kinh tế khác nhau của nền
kinh tế thị trờng có rất nhiều loại lao động khác nhau; tính chất, vai trò của
từng loại lao động đối với mỗi quá trình sản xuất kinh doanh lại khác nhau.
Vì thế, mỗi doanh nghiệp phải lựa chọn hình thức trả lơng cho ngời lao động
sao cho hợp lý, phù hợp với đặc điểm công nghệ, phù hợp với trình độ năng
lực quản lý.
Hiện nay, việc trả lơng trong các doanh nghiệp phải thực hiện theo luật
lao động và theo Nghị định NĐ 197 CP 31-12-1994 của Thủ tớng Chính phủ
quy định chi tiết và hớng dẫn thi hành tại điều 58 Bộ luật lao động nớc ta.
Các doanh nghiệp có thể áp dụng 3 hình thức trả lơng nh sau:
- Hình thức trả lơng theo thời gian
6
- Hình thức trả lơng theo sản phẩm
- Hình thức trả lơng khoán
1.2.2.1. Hình thức trả lơng theo thời gian
Theo hình thức này, cơ sở để tính trả lơng là thời gian làm việc và trình
độ nghiệp vụ của ngời lao động.
Tuỳ theo tính chất lao động khác nhau, mỗi ngành nghề cụ thể có một
thang lơng riêng, trong mỗi một thang lơng lại tuỳ theo trình độ thành thạo
nghiệp vụ, kỷ luật, chuyên môn mà chia làm nhiều bậc lơng, mỗi bậc lơng có
một mức tiền lơng nhất định.
Tiền lơng theo thời gian có thể tính theo các đơn vị thời gian nh: tháng,
tuần, ngày, giờ.
Lơng tháng đợc quy định sẵn đối với từng bậc lơng trong các thang
lơng, nó có nhiều nhợc điểm bởi không tính đợc ngời làm việc nhiều
hay ít ngày trong tháng, do đó không có tác dụng khuyến khích tận
dụng đủ số ngày làm việc quy định. Lơng tháng thờng áp dụng để trả
lơng cho nhân viên làm công tác quản lý hành chính, quản lý kinh tế
và các nhân viên thuộc các ngành hoạt động không có tính chất sản
xuất.
Lơng tuần đợc trả cho ngời lao động căn cứ vào mức lơng tháng và
số tuần thực tế trong tháng. Lơng tuần áp dụng trả cho các đối tợng
lao động có thời gian lao động không ổn định mang tính chất thời
vụ.
Lơng ngày trả cho ngời lao động căn cứ vào mức lơng ngày và số
ngày làm việc thực tế trong tháng. Lơng ngày thờng áp dụng để trả l-
7
ơng cho lao động trực tiếp hởng lơng thời gian, tính lơng cho ngời
lao động trong những ngày hội họp, học tập hoặc làm nghĩa vụ khác
và làm căn cứ để tính trợ cấp bảo hiểm xã hội (BHXH). Hình thức
này có u điểm đơn giản, dễ tính toán, phản ánh đợc trình độ kỹ thuật
và điều kiện làm việc của ngời lao động. Song, nó cha gắn tiền lơng
với kết quả lao động của từng ngời nên không kích thích việc tận
dụng thời gian lao động, nâng cao năng suất lao động và chất lợng
sản phẩm.
Mức lơng giờ tính dựa trên cơ sở mức lơng ngày, nó thờng đợc áp
dụng để trả lơng cho lao động trực tiếp trong thời gian làm việc
không hởng theo sản phẩm. Ưu điểm của hình thức này là đã tận
dụng đợc thời gian lao động của công nhân nhng nhợc điểm là vẫn
cha gắn tiền lơng với kết quả lao động với từng ngời, theo dõi phức
tạp
Thực tế cho thấy đơn vị thời gian để trả lơng càng ngắn thì việc trả lơng
càng gần với mức độ hao phí lao động thực tế của ngời lao động.
*Tiền lơng Tiền lơng cấp bậc Số ngày làm việc
=
ì
tháng chức vụ 1 ngày thực tế trong tháng
8
Tiền lơng tháng
ì
12 tháng
*Tiền lơng tuần =
Số tuần làm việc theo chế độ (52)
Tiền lơng tháng
*Tiền lơng ngày =
Số ngày làm việc theo chế độ (26)
Tiền lơng ngày
*Tiền lơng giờ =
Số giờ làm việc theo chế độ
Hình thức trả lơng này có nhợc điểm là không phát huy đầy đủ nguyên
tắc phân phối theo lao động vì nó không xét đến thái độ lao động, đến cách
sử dụng thời gian lao động, sử dụng nguyên vật liệu, máy móc thiết bị, cha
chú ý đến kết quả và chất lợng công tác thực tế của ngời lao động.
1.2.2.2. Hình thức trả lơng theo sản phẩm
Theo hình thức này, cơ sở để tính trả lơng là số lợng và chất lợng sản
phẩm hoàn thành.
Đây là hình thức trả lơng phù hợp với nguyên tắc phân phối theo lao
động, gắn bó chặt chẽ thù lao lao động với kết quả sản xuất, kỹ thuật, chuyên
môn, nghiệp vụ, phát huy năng lực, khuyến khích tài năng, sử dụng và phát
huy đợc khả năng của máy móc trang thiết bị để tăng năng suất lao động.
Tuy nhiên bên cạnh đó còn có những hạn chế có thể khắc phục đợc
nh năng suất cao nhng chất lợng kém do làm ẩu, vi phạm quy trình, sử dụng
quá năng lực của máy móc đó là do quá coi trọng số lớng sản phẩm hoàn
thành và một phần cũng do các định mức kinh tế kỹ thuật xây dựng quá lỏng
lẻo, không phù hợp với điều kiện và khả năng sản xuất của doanh nghiệp.
9
Bởi vậy, trong việc trả lơng theo sản phẩm, vấn đề quan trọng là phải
xây dựng các định mức kinh tế kỹ thuật để làm cơ sở cho việc xây dựng đơn
giá tiền lơng đối với từng loại sản phẩm, từng công việc một cách hợp lý .
Tuỳ thuộc vào điều kiện và tình hình cụ thể ở từng doanh nghiệp, hình
thức trả lơng theo sản phẩm đợc vận dụng theo các phơng pháp cụ thể:
- Trả lơng theo sản phẩm trực tiếp không hạn chế
- Trả lơng theo sản phẩm gián tiếp
- Trả lơng theo sản phẩm có thởng - phạt
- Trả lơng theo sản phẩm luỹ tiến
1.2.2.3. Hình thức trả lơng khóan
Theo hình thức này, công nhân đợc giao việc và tự chịu trách nhiệm
với công việc đó cho tới khi hoàn thành.
Có 2 phơng pháp khoán: khoán công việc và khoán quỹ lơng.
*Khoán công việc:
Theo hình thức này, doanh nghiệp quy định mức tiền lơng cho mỗi
công việc hoặc khối lợng sản phẩm hoàn thành. Ngời lao động căn cứ vào
mức lơng này có thể tính đợc tiền lơng của mình thông qua khối lợng công
việc mình đã hoàn thành.
Mức lơng quy định Khối lợng công việc
Tiền lơng khoán công việc =
ì
cho từng công việcđã hoàn thành
10
Cách trả lơng này áp dụng cho những công việc lao động đơn giản,
có tính chất đột xuất nh bốc dỡ hàng, sửa chữa nhà cửa
* Khoán quỹ l ơng:
Theo hình thức này, ngời lao động biết trớc số tiền lơng mà họ sẽ
nhận sau khi hoàn thành công việc và thời gian hoàn thành công việc đợc
giao. Căn cứ vào khối lợng từng công việc hoặc khối lợng sản phẩm và thời
gian cần thiết để hoàn thành mà doanh nghiệp tiến hành khoán quỹ lơng.
Trả lơng theo cách khoán quỹ lơng áp dụng cho những công việc
không thể định mức cho từng bộ phận công việc hoặc những công việc mà xét
ra giao khoán từng công việc chi tiết thì không có lợi về mặt kinh tế, thờng là
những công việc cần hoàn thành đúng thời hạn.
Trả lơng theo cách này tạo cho ngời lao động có sự chủ động trong
việc sắp xếp tiến hành công việc của mình từ đó tranh thủ thời gian hoàn
thành công việc đợc giao. Còn đối với ngời giao khoán thì yên tâm về thời
gian hoàn thành.
Nhợc điểm của phơng pháp trả lơng này là dễ gây ra hiện tợng làm
bừa, làm ẩu, không đảm bảo chất lợng do muốn đảm bảo thời gian hoàn
thành. Vì vậy, muốn áp dụng phơng pháp này thì công tác kiểm nghiệm chất
lợng sản phẩm trớc khi giao nhận phải đợc coi trọng, thực hiện chặt chẽ.
Nhìn chung, ở các doanh nghiệp do tồn tại trong nền kinh tế thị tr-
ờng, đặt lợi nhuận lên mục tiêu hàng đầu nên việc tiết kiệm đợc chi phí lơng
là một nhiệm vụ quan trọng, trong đó cách thức trả lơng đợc lựa chọn sau khi
nghiên cứu thực tế các loại công việc trong doanh nghiệp là biện pháp cơ
bản, có hiệu quả cao để tiết kiệm khoản chi phí này. Thông thờng ở một
doanh nghiệp thì các phần việc phát sinh đa dạng với quy mô lớn nhỏ khác
11
nhau. Vì vậy, các hình thức trả lơng đợc các doanh nghiệp áp dụng linh hoạt,
phù hợp trong mỗi trờng hợp, hoàn cảnh cụ thể để có đợc tính kinh tế cao
nhất.
1.2.3. Vai trò của tiền lơng
Đối với các chủ doanh nghiệp, tiền lơng là một yếu tố của chi phí sản
xuất. Còn đối với ngời cung ứng sức lao động, tiền lơng là nguồn thu nhập
chủ yếu.
Mục đích của nhà sản xuất là lợi nhuận, còn mục đích lợi ích của ngời
cung ứng sức lao động là tiền lơng. Với ý nghĩa này, tiền lơng không chỉ
mang bản chất là chi phí, mà nó đã trở thành phơng tiện tạo ra giá trị mới,
hay đúng hơn, là nguồn cung ứng sự sáng tạo, sức sản xuất, năng lực của lao
động trong quá trình sản sinh ra các giá trị gia tăng.
Đối với ngời lao động, tiền lơng nhận đợc thoả đáng, sẽ là động lực
kích thích năng lực sáng tạo để làm tăng năng suất lao động. Mặt khác, khi
năng suất lao động tăng thì lợi nhuận doanh nghiệp sẽ tăng, do đó nguồn
phúc lợi của doanh nghiệp mà ngời lao động đợc nhận lại cũng sẽ tăng lên,
nó là phần bổ sung thêm cho tiền lơng, làm tăng thu nhập và tăng lợi ích cho
ngời cung ứng lao động. Hơn nữa, khi lợi ích của ngời lao động đợc đảm bảo
bằng các mức lơng thoả đáng, nó sẽ tạo ra sự gắn kết cộng đồng những ngời
lao động với mục tiêu và lợi ích của doanh nghiệp, xoá bỏ sự ngăn cách giữa
ngời chủ doanh nghiệp với ngời cung ứng sức lao động, làm cho ngời lao
động có trách nhiệm hơn, tự giác hơn với các hoạt động của doanh nghiệp
các nhà kinh tế gọi đó là các phản ứng dây truyền tích cực của tiền lơng.
Ngợc lại, nếu doanh nghiệp trả lơng không hợp lý hoặc vì mục tiêu lợi
nhuận thuần tuý, không chú ý đúng mức đến lợi ích của ngời lao động thì
12
nguồn nhân công có thể bị kiệt quệ về thể lực, giảm sút về chất lợng, làm hạn
chế các động cơ cung ứng sức lao động. Biểu hiện rõ nhất là tình trạng cắt
xén thời gian làm việc, lãng phí nguyên, nhiên vật liệu và thiết bị; làm dối,
làm ẩu; mẫu thuẫn giữa ngời làm công và chủ doanh nghiệp có thể dẫn đến
lãn công, bãi công, điình công
Một biểu hiện nữa là sự di chuyển lao động, nhất là những ngời có
trình độ chuyên môn và tay nghề cao, sang những khu vực và doanh nghiệp
có mức lơng hấp dẫn hơn. Hậu quả gây ra, vừa làm mất đi nguồn nhân lực
quan trọng, vừa làm thiếu hụt lao động cục bộ, đình đốn hoặc phá vỡ tiến
trình bình thờng trong sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp.
1.3. Lý luận chung về bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế,
kinh phí công đoàn
1.3.1. Bảo hiểm xã hội
Trong thực tế, không phải lúc nào con ngời cũng chỉ gặp thuận lợi, có
đầy đủ thu nhập và mọi điều kiện để sinh sống bình thờng. Trái lại, có rất
nhiều trờng hợp khó khăn, bất lợi, ít nhiều ngẫu nhiên phát sinh làm cho ngời
ta bị giảm mất thu nhập hoặc các điều kiện sinh sống khác nh ốm đau, tai
nạn, tuổi già mất sức lao động nhng những nhu cầu cần thiết của cuộc sống
không những mất đi hay giảm đi mà thậm chí còn tăng lên, xuất hiện thêm
những nhu cầu mới (khi ốm đau cần chữa bệnh ). Vì vậy, con ngời và xã hội
loài ngời muốn tồn tại, vợt qua đợc những lúc khó khăn ấy thì phải tìm ra và
thực tế đã tìm ra nhiều cách giải quyết khác nhau.
Trong xã hội công xã nguyên thuỷ, khó khăn bất lợi của mỗi ngời đợc
cả cộng đồng san sẻ gánh chịu. Còn ở xã hội phong kiến quan lại, những lúc
gặp khó khăn thì cậy nhờ ở Vua, dân c gặp khó khăn thì trông cậy vào sự
13
đùm bọc, hảo tâm của họ hàng làng xã. Nh vậy là tất cả đều ở thế bị động,
thụ động trông chờ vào sự hảo tâm của phía giúp đỡ mà hoàn toàn không đợc
chắc chắn.
Tiến bộ hơn, khi nền công nghiệp và kinh tế hàng hoá phát triển xuất
hiện mối quan hệ chủ - thợ. Khi hai bên cam kết về lao động, điều kiện về sự
đảm bảo một phần thu nhập để trang trải những nhu cầu sinh sống thiết yếu
khi ốm đau, tai nạn cho ngời lao động đã đợc ngời lao động quan tâm đến.
Tuy nhiên, mới đầu do việc đảm bảo này chỉ liên quan giữa hai bên chủ- thợ
mà chủ thì rõ ràng không muốn chi ra, thợ thì luôn đòi hỏi, vì vậy, tranh chấp
giữa họ luôn xảy ra. Điều kiện khách quan đó làm xuất hiện một bên thứ ba,
là nhân vật đóng vai trò trung gian để giúp thực hiện những cam kết giữa
chủ- thợ bằng những hoạt động thích hợp của nó. Nhân vật thứ ba có đủ khả
năng và sự tín nhiệm để làm bên trung gian, đó là Nhà nớc.
Nhà nớc quy định hàng tháng giới chủ phải trích ra một khoản tiền
nho nhỏ đợc tính toán chặt chẽ trên cơ sở xác xuất những biến cố của tập hợp
những ngời lao động làm thuê để giao cho bên thứ ba, khi có biến cố thì bên
thứ ba chi trả, không phụ thuộc vào giới chủ, số tiền không phải dùng đến
(cha phải chi trả) sẽ tồn tích lâu ngày thành quỹ.
Việc Nhà nớc can thiệp vào với vai trò là bên thứ ba, một mặt làm
tăng vai trò của Nhà nớc trong nền kinh tế trong các mối quan hệ xã hội, mặt
khác làm tăng chi cho ngân sách Nhà nớc.
Nhà nớc bằng những cơ sở lý luận khoa học đã buộc giới chủ đóng
góp vào quỹ BHXH với một khoản tiền phù hợp đủ cho ngời lao động, đồng
thời cũng yêu cầu giới thợ đóng góp một phần tiền lơng của mình vào quỹ để
đảm bảo cho cuộc sống của chính mình.
14
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét