Thứ Bảy, 8 tháng 3, 2014

Giải pháp quản lý và cải tạo nhà chung cư cũ ở Hà Nội.

cấp III Bậc III: chất lượng
sử dụng trung bình
Bậc III: niên hạn sử
dụng trên 20 năm
Bậc IV
cấp IV Bậc IV: chất lượng
sử dụng thấp
Bậc IV: niên hạn sử
dụng dưới 20 năm
Bậc V
- Đối với nhà biệt thự
Nhà biệt thự là nhà ở riêng biệt, có sân vườn, hàng rào, xây bằng gạch ngói
hay bê tông cốt thép, kiến trúc mỹ thuật, tiện nghi sinh hoạt đầy đủ,mỗi tầng có ít
nhất 2 phòng đề ở quay mặt ra sân hay vườn (không kể phòng tiếp khách cà phòng
ăn riêng). Biệt thự phân ra 4 hạng: Hạng 1- Biệt thự giáp tường; Hạng 2- Biệt thự
song đôi; Hạng 3- Biệt thự riêng biệt; Hạng 4- Biệt thự sang trọng riêng biệt.
Ngoài các cách phân loại trên, nhà ở còn phải căn cứ vào các tiêu chuẩn sau
để phân loại: Diện tích sử dụng (m2); Hệ số cấp đô thị (K1); Hệ số vị trí xét theo
các khu vực trong đô thị (K2); Hệ số tầng cao (K3); Hệ số điều kiện giao thông, kết
cấu hạ tầng (K4)
Việc phân loại các điều kiện nhà ở như trên sẽ là căn cứ để tính giá cho thuê
nhà ở của các tổ chức, cá nhân.
1.1.5. Các khu vực sản xuất nhà ở đô thị:
Lĩnh vực sản xuất nhà ở đô thị được chia làm 3 khu vực:
- Khu vực Nhà nước chỉ những đề án nhà ở được Chính phủ hoặc các xí
nghiệp, cơ quan Nhà nước trực tiếp xây dựng bằng nguồn vốn ngân sách Nhà nước
và nhà ở có nguồn gốc sở hữu khác được chuyển thành sở hữu của Nhà nước theo
quy định của pháp luật. Khu vực này được xem như tiêu điểm chính của chính sách
nhà ở, vì đó là khu vực mà Chính phủ có thể kiểm soát trực tiếp. Nhà ở do Nhà
nước cung cấp thường là loại được bao cấp, với nguồn cung cấp có hạn mà nhu cầu
lại rất lớn, nên không tránh khỏi những bất công trong chính sách phân phối nhà ở.
- Khu vực tư nhân có nghĩa là nhà ở được xây dựng bởi các cá nhân hoặc
doanh nghiệp không phải nguồn vốn của Nhà nước, nhưng hoạt động trong hệ
5
thống quy tắc chính thức của Nhà nước. Chính phủ ít kiểm soát được khu vực này
hơn khu vực Nhà nước, mặc dù Nhà nước vẫn còn quyết định khuôn khổ điều tiết.
Cơ chế mà Nhà nước duy trì để kiểm soát việc sản xuất nhà ở của khu vực tư nhân
- hệ thống quy tắc - được các nhà sản xuất nhà ở tư nhân coi như phần bổ sung vào
giá thành sản xuất nhà ở. Các quy tắc mà Nhà nước điều tiết là cần thiết vì lý do an
ninh công cộng và đảm bảo các tiêu chuẩn của người tiêu dùng do thiếu thông tin
thị trường về nhà ở. Trong thực tế, sản xuất nhà ở khu vực tư nhân có hiệu quả hơn
khu vực Nhà nước. Nhưng nếu buông lỏng, không điều tiết khu vực này sẽ dẫn đến
khoảng cách giữa người giàu và người nghèo càng lớn hơn và sẽ dẫn đến sự bất
bình đẳng xã hội cơ bản về nhà ở.
- Khu vực nhà ở không chính thức được sử dụng mô tả toàn bộ nhà ở được
xây dựng 1 cách độc lập với những khuôn khổ quy tắc của Chính phủ. Có thể hiểu
đây là khu vực sản xuất nhà ở của khu vực tư nhân không theo quy tắc, hoặc nhà ở
được xây dựng trên các giá trị của cộng đồng và tự giúp đỡ lẫn nhau, có thể dẫn
đến những phản ứng đối với chính sách rất khác nhau. Vì thế, khu vực này có thể
được kiểm nghiệm và chia theo nhiều cách phụ thuộc nhà ở được xây dựng để kinh
doanh hay đơn thuần là để sử dụng, nhà ở được sản xuất ra cho thuê hoặc cho
người ở sở hữu, hoặc các tiêu chuẩn chất lượng xây dựng và kiểu loại nhà ở. Nhà ở
trong khu vực không chính thức có vô số hình thức, tuỳ thuộc vào bối cảnh kinh tế,
xã hội và thiết chế đặc thù của dân cư đô thị. Khu vực này trên thực tế đóng góp
phần quan trọng trong việc gia tăng quỹ nhà ở, đặc biệt đối với các tầng lớp dân cư
có thu nhập thấp. Mục tiêu trung tâm của việc hoạch định chính sách nhà ở đối với
khu vực này là cần khuyến khích những mặt tích cực của nó không ngăn cản động
lực cơ bản đã dẫn đến sự đóng góp 1 cách thành công của nó vào quỹ nhà ở đô thị.
Đồng thời cũng phải đưa ra những định hướng giải quyết hàng loạt vấn đề liên
quan, bao gồm việc xác định các tiêu chuẩn chất lượng, vai trò của cộng đồng tham
gia vào việc ra quyết định và những ảnh hưởng tiêu cực tiềm tàng của các lực
6
lượng thị trường trong việc định giá cả, đặc biệt đối với các khu trung tâm hoặc khu
vực kinh doanh.
Ba khu vực trên được xem như sự chuyển hoá liên tục từ sự kiểm soát toàn
bộ của Nhà nước về sản xuất nhà ở (hoàn toàn theo quy tắc và sử dụng vốn của
Nhà nước) ở khu vực Nhà nước đến việc sản xuất nhà ở do Nhà nước điều tiết được
xây dựng bởi tư nhân và các doanh nghiệp, và đến nhà ở bất quy tắc được xây dựng
bởi các gia đình và các nhà thầu nhỏ.
1.1.6. Nội dung quản lý Nhà Nước về nhà ở:
Nội dung quản lý Nhà Nước về nhà ở bao gồm:
- Ban hành quy chế, tiêu chuẩn quy phạm về quy hoạch, thiết kế xây dựng,
quản lý sử dụng nhà ở.
- Lập kế hoạch xây dựng nhà ở theo đồ án quy hoạch được duyệt.
- Cho phép hoặc đình chỉ việc xây dựng, cải tạo nhà ở.
- Đăng ký, điều tra, thống kê nhà.
- Thanh tra Nhà nước, giải quyết tranh chấp và xử lý vi phạm pháp luật về
nhà ở.
Với các nội dung trên Nhà nước thông qua các công cụ quản lý, các quy định
mang tính pháp lý để quy hoạch và chỉ đạo thực hiện chính sách phát triển nhà ở
phù hợp với từng giai đoạn phát triển kinh tế của đất nước.
1.2. Tổng quan về nhà chung cư:
1.2.1. Khái niệm nhà chung cư:
Theo quy chế quản lý sử dụng nhà chung cư được ban hành kèm theo quyết
định số 10/2003/QĐ-BXD ra ngày 03/4/2003 của Bộ trưởng Bộ Xây Dựng: Nhà
chung cư là nhà nhiều tầng, nhiều căn hộ ở, có cấu trúc kiểu căn hộ khép kín, nói
cách khác là gồm nhiều căn hộ riêng biệt. Những người sống trong nhà chung cư có
quyền sở hữu (quyền sử dụng) đối với các căn hộ của mình, đồng thời có quyền sở
hữu (quyền sử dụng) chung đối với nhà đó bao gồm phần diện tích, khoảng không
7
gian và các thiết bị dùng chung (có lối đi, cầu thang chung và hệ thống kết cấu hạ
tầng sử dụng chung). Các chủ sở hữu các căn hộ trong nhà chung cư có quyền và
nghĩa vụ ngang nhau trong việc quản lý phần diện tích và các thiết bị đó.
1.2.2. Đặc điểm nhà chung cư:
- Chịu ảnh hưởng lớn của quy hoạch: Đó có thể là những điểm nhấn cho diện
mạo kiến trúc đô thị, đòi hỏi phải có đầy đủ các công trình phụ trợ đảm bảo cho đời
sống của dân cư sống trong đó.
- Tải trọng lớn và sử dụng nhiều năng lượng: Mỗi nhà chung cư bao gồm rất
nhiều căn hộ, vì vậy nó có tải trọng rất lớn. Để tận dụng không gian dưới đất, người
ta thường bố trí 1 số tầng hầm làm nơi để xe, kho chứa, các phòng kỹ thuật và phụ
trợ khác,…
-Có chiều cao và hệ thống giao thông phát triển theo chiều đứng: Hiện nay,
do giá đất đô thị rất đắt nên các chung cư thường có chiều cao lớn hơn bề rộng,
khác hẳn với những chung cư cũ. Vì vậy mà thang máy là 1 phần không thể thiếu
được của các chung cư cao tầng.
1.2.3. Phân loại nhà chung cư:
Có nhiều cách phân loại nhà chung cư:
- Theo mục đích sử dụng có thể chia ra: căn hộ để ở, văn phòng cho thuê, kí
túc xá, khách sạn,…
- Theo mục đích kinh doanh: chủ đầu tư xây chung cư để bán hoặc cho thuê
để làm văn phòng,…
- Theo quy hoạch đô thị: chung cư kiểu đơn nguyên, chung cư kiểu hành
lang,…
- Theo cấp độ - đối tượng sử dụng: đây là cách phân loại thường được sử
dụng nhất.
+ Chung cư cao cấp: dành cho các đối tượng có thu nhập cao của xã hội, có
đủ khả năng để mua và chi trả những chi phí trong quá trình sử dụng và vận hành
8
toà nhà. Những căn hộ trong trong toà nhà được trang bị đầy đủ tiện nghi cùng
những thiết bị cao cấp, đắt tiền.
+ Chung cư loại trung bình: dành cho những đối tượng có mức thu nhập
khoảng 8-10 triệu đồng/1 tháng.
+ Chung cư dành cho người có thu nhập thấp: Những căn hộ ở đây được
trang bị đơn giản phù hợp với mức sống của người dân.
1.2.4. Những quy định Nhà nước về quản lý và cải tạo nhà chung cư:
Các văn bản pháp luật về quản lý và cải tạo nhà chung cư:
- Tại điều 5/mục1/chương II của Quy chế quản lý sử dụng nhà chung cư
được ban hành kèm theo quyết định số 08/2008/QĐ-BXD ra ngày 28/5/2008 của
Bộ trưởng Bộ Xây Dựng quy định quản lý vận hành nhà chung cư.
- Việc cải tạo, phá dỡ nhà chung cư được thực hiện theo quy định tại Điều
81, 83, 84, 85, 86, 87, 88 và Điều 89 của Luật Nhà ở; Điều 55 và Điều 56 của Nghị
định 90/2006/NĐ-CP ngày 06/9/2006 của Chính phủ về “quy định chi tiết và
hướng dẫn thi hành Luật Nhà ở” và Nghị quyết số 34/2007/NQ-CP ngày 03/7/2007
về “một số giải pháp để thực hiện việc cải tạo, xây dựng lại các chung cư cũ bị hư
hỏng, xuống cấp”.
1.2.5. Tiêu chuẩn xác định nhà chung cư cũ:
Kế hoạch 2006 - 2010, Hà Nội cần khoảng 1.000 tỉ đồng để xoá bỏ nốt
những nhà nguy hiểm và sửa chữa, cải tạo, chống xuống cấp quỹ nhà do các cơ
quan tự quản để bàn giao cho ngành chức năng quản lý. Tuy nhiên, chương trình
nêu trên hiện còn thiếu một điểm tựa rất cơ bản đó là tiêu chuẩn “khám bệnh” cho
các khu nhà được gọi là nguy hiểm nói riêng và nhà chung cư cũ nói chung để kết
luận chuẩn xác về hiện trạng của từng nhà. Ðồng thời, thực hiện quá trình theo dõi
quan sát cụ thể theo một thời gian dài thì có như vậy cơ quan chức năng mới có thể
lên kế hoạch cụ thể và dự báo được số lượng công trình hiện chưa nguy hiểm rồi sẽ
thành nguy hiểm.
9
Thực tế cho thấy nhà nhiều tầng được xây dựng vào những năm 60, 70 của thế kỷ
trước ở các tỉnh, thành trên cả nước đã và đang bị xuống cấp nghiêm trọng. Kết cấu
của loại nhà này phổ biến là bê tông cốt thép và kết cấu xây gạch, một số bộ phận
là kết cấu thép hoặc gỗ. Do nhiều lý do khách quan và chủ quan, từ ngày xây dựng
đến nay chưa có quy định, đầu tư cho công tác duy tu bảo dưỡng, vì vậy tình trạng
xuống cấp các công trình xảy ra, nhiều công trình nhà đã không thể sử dụng được.
Ðể có thể sửa chữa hoặc có phương án phá đi quy hoạch lại cần phải đánh giá rà
soát lại hệ thống nhà cũ.
Theo thống kê của Sở Xây dựng Hà Nội có 1.369 công trình nhà xuống cấp
với mức độ nguy hiểm khác nhau. Vấn đề cải tạo hay phá đi để xây mới các khu
nhà cần phải có một tiêu chuẩn để xây dựng lộ trình thực hiện.
Theo đó, Bộ Xây dựng đã ra quyết định số 06/2006/QĐ-BXD ra ngày
03/1/2008 về ban hành tiêu chuẩn xây dựng Việt Nam 373 – 2006: “Chỉ dẫn đánh
giá mức độ nguy hiểm của nhà”. Đây là bộ tiêu chuẩn rất cần thiết và dễ áp dụng.
Hiệu quả kinh tế đạt được khi áp dụng tiêu chuẩn này cùng với các tiêu chuẩn hiện
hành là cơ sở pháp lý giúp các cơ quan quản lý tiến hành đánh giá chất lượng quỹ
nhà hiện có, để có chính sách bảo trì, cải tạo hoặc phá bỏ những ngôi nhà nguy
hiểm. Mục tiêu của việc xây dựng tiêu chuẩn “Chỉ dẫn đánh giá mức độ nguy hiểm
của nhà” là đưa ra một phương pháp đánh giá hư hỏng công trình hoàn chỉnh cả về
phương pháp và quy trình thực hiện. Tiêu chuẩn này áp dụng để đánh giá mức độ
nguy hiểm của công trình công nghiệp, công cộng, nhà nhiều tầng như các chung
cư đang xuống cấp hiện nay, trên cơ sở đánh giá cấu kiện nguy hiểm theo tiêu
chuẩn hiện hành vì vậy các chỉ tiêu được lượng hoá cụ thể.
Trình tự đánh giá mức độ nguy hiểm cho một khu nhà bao gồm: nội dung và phạm
vi đánh giá, khảo sát sơ bộ, khảo sát chi tiết, phân tích đánh giá và lập báo cáo.
Phương pháp đánh giá tuân theo các nguyên tắc:
10
- Đánh giá tổng hợp (những nguyên tắc cơ bản phải tuân theo khi khảo sát
đánh giá mức độ nguy hiểm của nhà).
- Đánh giá mức độ nguy hiểm cấu kiện (phân chia cấu kiện được quy định
cho từng bộ phận của nhà như móng, tường, cột, dầm, xà, vì kèo, sàn ).
- Đánh giá mức độ nguy hiểm của nhà.
Theo nguyên tắc để đánh giá mức độ nguy hiểm của nhà nêu trong tiêu
chuẩn, nhà nguy hiểm là nhà mà kết cấu bị hỏng nghiêm trọng hoặc cấu kiện chịu
lực thuộc loại nguy hiểm, bất kỳ lúc nào cũng có thể mất ổn định và mất khả năng
chịu lực, không bảo đảm an toàn sử dụng. Vì vậy, để đánh giá mức độ nguy hiểm
của nhà chung cư, căn cứ vào đặc điểm cấu tạo và loại kết cấu chịu lực của nó.
Việc đánh giá tiến hành theo 3 bước:
- Bước 1: đánh giá mức độ nguy hiểm của cấu kiện.
Cấu kiện nguy hiểm là những cấu kiện mà khả năng chịu lực, vết nứt và biến
dạng không đáp ứng được yêu cầu sử dụng bình thường (điều kiện sử dụng bình
thường là điều kiện sử dụng tuân theo các yêu cầu của tiêu chuẩn hoặc các quy định
trong thiết kế, thỏa mãn các yêu cầu về công nghệ cũng như sử dụng).
- Bước 2: đánh giá mức độ nguy hiểm của các bộ phận nhà, bao gồm: nền
móng, kết cấu chịu lực phần thân nhà và kết cấu bao che, được qui định theo 4 cấp:
+ Cấp a: Không có cấu kiện nguy hiểm;
+ Cấp b: Có cấu kiện nguy hiểm;
+ Cấp c: Nguy hiểm cục bộ;
+ Cấp d: Tổng thể nguy hiểm.
- Bước 3: đánh giá mức độ nguy hiểm của nhà.
Khi phân tích tính nguy hiểm của các cấu kiện, của các bộ phận nhà cần xét
xem sự nguy hiểm của chúng là độc lập hay là tương quan. Khi tính nguy hiểm của
cấu kiện chỉ mang tính chất độc lập, thì không tạo thành nguy hiểm cho cả hệ
11
thống; khi nguy hiểm là tương quan (tức là có liên quan với nhau), thì phải xem xét
mức độ nguy hiểm của hệ kết cấu để dự đoán phạm vi ảnh hưởng của chúng.
Khi phân tích toàn diện, dự đoán tổng hợp, phải xem xét các yếu tố sau đây:
+ Mức độ hư hỏng của các cấu kiện;
+ Vai trò của những cấu kiện hư hỏng trong toàn nhà;
+ Số lượng và tỉ lệ của những cấu kiện hư hỏng so với toàn nhà;
+ Ảnh hưởng của môi trường xung quanh;
+ Yếu tố con người và tình trạng nguy hiểm của kết cấu;
+ Khả năng có thể khôi phục sau khi kết cấu bị hỏng;
+ Tổn thất kinh tế do kết cấu bị hỏng gây ra.
Đánh giá mức độ nguy hiểm của toàn nhà được qui định theo 4 cấp:
+ Cấp A: Khả năng chịu lực của kết cấu có thể thoả mãn yêu cầu sử dụng
bình thường, chưa có nguy hiểm, kết cấu nhà an toàn.
+ Cấp B: Khả năng chịu lực kết cấu cơ bản đáp ứng yêu cầu sử dụng bình
thường, cá biệt có cấu kiện ở trạng thái nguy hiểm, nhưng không ảnh hưởng đến
kết cấu chịu lực, công trình đáp ứng được yêu cầu sử dụng bình thường.
+ Cấp C: Khả năng chịu lực của một bộ phận kết cấu không thể đáp ứng
được yêu cầu sử dụng bình thường, xuất hiện tình trạng nguy hiểm cục bộ.
+ Cấp D: Khả năng chịu lực của kết cấu chịu lực đã không thể đáp ứng được
yêu cầu sử dụng bình thường, nhà xuất hiện tình trạng nguy hiểm tổng thể.
1.2.6. Nội dung quản lý nhà chung cư:
Mục đích của việc quản lý nhà chung cư là nâng cao điều kiện sống, đảm bảo
an toàn cho người sử dụng, đảm bảo an ninh trật tự, tạo lập nếp sống văn minh đô
thị trong các khu nhà chung cư, duy trì chất lượng, kiến trúc, cảnh quan, vệ sinh
môi trường của nhà chung cư. Đồng thời cũng xác định rõ quyền và nghĩa vụ, trách
nhiệm của các tổ chức, cá nhân có liên quan trong việc quản lý sử dụng nhà chung
cư. Việc quản lý sử dụng nhà chung cư được thực hiện theo nguyên tắc tự quản,
12
phù hợp với pháp luật về nhà ở và được quy định rõ trong quyết định số
08/2008/NQ-BXD ra ngày 28/5/2008
- Quản lý vận hành nhà chung cư bao gồm quản lý việc điều khiển, duy trì
hoạt động của hệ thống trang thiết bị thuộc phần sở hữu chung hoặc phần sử dụng
chung của nhà chung cư, cung cấp các dịch vụ đảm bảo cho nhà chung cư hoạt
động bình thường. Việc vận hành nhà chung cư phải do doanh nghiệp có năng lực
chuyên môn về quản lý vận hành nhà chung cư thực hiện.
- Bảo trì nhà chung cư bao gồm việc duy tu bảo dưỡng, sửa chữa nhỏ, sửa
chữa vừa và sửa chữa lớn nhà chung cư nhằm duy trì chất lượng của nhà chung cư.
Việc bảo trì được thực hiện theo quy định tại thông tư số 08/2006/TT-BXD ngày
24/11/2006 về hướng dẫn công tác bảo trì công trình xây dựng. Việc bảo trì nhà
chung cư phải do tổ chức có tư cách pháp nhân và có chức năng về hoạt động xây
dựng phù hợp với công việc bảo trì.
1.2.7. Nội dung cải tạo nhà chung cư:
Cải tạo, xây dựng lại các khu chung cư cũ trên địa bàn hà Nội là 1 trong
những nội dung đã đề cập trong quy chế nghị quyết số 34/2007/NQ-CP ngày
03/7/2007 về một số giải pháp để thực hiện việc cải tạo, xây dựng lại các chung cư
cũ bị hư hỏng, xuống cấp, cùng nghị quyết 07/2005/NQ-HĐND ra ngày 05/8/2005
của Hội đồng nhân dân về cải tạo, xây dựng lại các khu chung cư cũ, xuống cấp
trên địa bàn thành phố Hà Nội. Nghị quyết HĐND khẳng định chủ trương phải tiến
hành cải tạo, xây dựng lại các khu chung cư cũ trên địa bàn và coi đây là 1 nhiệm
vụ cần quan tâm đặc biệt trong giai đoạn 2006-2015. Nghị quyết xác định rõ mục
tiêu của cải tạo, xây dựng lại các khu chung cư cũ trên địa bàn để cải thiện điều
kiện của người dân, góp phần chỉnh trang đô thị, sắp xếp lại dân cư, nâng cao hiệu
quả sử dụng đất, xây dựng mô hình đô thị theo hướng văn minh hiện đại. Ba quan
điểm đó là:
13
- Đây là công việc lớn, khó và liên quan trực tiếp đến cuộc sống của một bộ
phận lớn dân cư thành phố nên cần có sự chỉ đạo tập trung, tích cực, cách làm bài
bản, chắc chắn và có bước đi thích hợp. Ưu tiên thực hiện trước các nhà nguy hiểm,
các chung cư xuống cấp không còn đảm bảo an toàn.
- Phải xác định đây là các dự án chỉnh trang đô thị và mang tính xã hội cao.
Việc tiến hành cải tạo, xây dựng mới các chung cư cũ phải phù hợp với quy hoạch
chung, gắn với việc bố trí sắp xếp lại dân cư trên địa bàn và xây dựng các khu đô
thị mới, không nhất thiết khép kín trong từng khu,… đồng thời với việc cải tạo, xây
dựng mới cần đổi mới mô hình quản lý các khu chung cư cho phù hợp với điều
kiện hiện đại.
- Công việc này là trách nhiệm của thành phố, của các cấp chính quyền và
của người dân sống trong khu vực, khi thực hiện phải kết hợp hài hoà lợi ích của xã
hội, của nhà nước, của người dân và của nhà đầu tư, trong đó lấy lợi ích của cộng
đồng xã hội, của đa số dân cư làm chủ đạo.
Nghị quyết 07 của HĐND cũng đề ra 4 nguyên tắc cơ bản:
- Phải thực hiện trên cơ sở 1 đề án chung, theo quy hoạch được duyệt của
toàn khu, phương án thực hiện phải công bố công khai và phải được ít nhất 2/3 dân
cư trong khu đồng tình.
- Đây là dự án mang tính đặc thù, Nhà nước và nhân dân cùng làm, tiến hành
theo phương thức xã hội hoá, ngân sách Nhà nước chỉ hỗ trợ công tác quy hoạch,
chuẩn bị đầu tư, đầu tư 1 số hạ tầng xã hội và hạ tầng kỹ thuật thiết yếu.
- Việc cải tạo, xây mới các khu chung cư cũ phải gắn với việc quy hoạch,
nâng cấp đồng bộ hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội ở khu vực theo hướng văn
minh hiện đại, công trình và căn hộ phải đảm bảo chất lượng và phù hợp với các
tiêu chuẩn xây dựng hiện hành. Phương án quy hoạch và bố trí, sắp xếp dân cư phải
đảm bảo nguyên tắc không hút dân vào khu vực nội thành, không bố trí để ở tầng 1
các chung cư cao tầng mà dành cho nhu cầu công cộng. Diện tích xây dựng nhà chủ
14

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét