LINK DOWNLOAD MIỄN PHÍ TÀI LIỆU "hoàn thiện công tác hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại công ty đầu tư phát triển hạ tầng đô thị": http://123doc.vn/document/1051107-hoan-thien-cong-tac-hach-toan-chi-phi-san-xuat-va-tinh-gia-thanh-san-pham-tai-cong-ty-dau-tu-phat-trien-ha-tang-do-thi.htm
công trình, các đơn đặt hàng, các giai đoạn công việc Vì vậy phải lập dự toán
chi phí và tính giá thành theo từng đối tợng hạch toán chi phí thích hợp.
3.Vai trò, nhiệm vụ của công tác quản lý, hạch toán chi phí sản xuầt
và tính giá thành sản phẩm trong các doanh nghiệp kinh doanh xây lắp.
Với những đặc điểm đặc thù trên thì doanh nghiệp xây lắp cần tổ chức
công tác hạch toán kế toán sao cho phù hợp nhằm đảm bảo chất lợng công tác kế
toán và cung cấp thông tin kịp thời cho công tác quản lý. Điều đó có nghĩa là
thông tin kế toán phải kịp thời, toàn diện, khái quát đợc tình hình hoạt động của
doanh nghiệp. Kế toán phải đảm bảo cung cấp thông tin về các yếu tố chi phí cho
quá trình sản xuất, đó là chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực
tiếp, chi phí sản xuất chung không chỉ giúp cho ban lãnh đạo doanh nghiệp mà
còn giúp cho Nhà nớc biết tỷ trọng của các loại chi phí, giám đốc dự toán chi phí,
làm cơ sở để tính dự toán cho kỳ sau, tính thu nhập quốc dân cho ngành. Các
thông tin đó giúp Nhà nớc quản lý doanh nghiệp, là cơ sở để ban hành các chế độ,
chính sách tạo điều kiện cho doanh nghiệp hoạt động, hạ thấp chi phí lao động cá
biệt để từ đó góp phần hạ thấp hao phí lao động xã hội.
Còn đối với hoạt động của doanh nghiệp thì việc hạ thấp hao phí lao
động cá biệt là điều kiện tiên quyết cho việc tồn tại và phát triển của doanh
nghiệp. Vấn đề quan trọng trong quản lý vi mô của doanh nghiệp là quản lý chi
phí một cách chi tiết, chặt chẽ. Thông tin kế toán trở thành yếu tố quan trọng giúp
cho công tác quản lý chi phí đầu vào cũng nh toàn bộ quá trình sản xuất. Đáp ứng
đợc yêu cầu đó đòi hỏi phải tập hợp đợc chi phí của mỗi loại là bao nhiêu để so
sánh với kế hoạch để từ đó xác định mức tiết kiệm hay lãng phí trong toàn bộ chi
phí đã chi ra cũng nh trong từng khâu, từng khoản mục. Nh vậy kế toán cung cấp
thông tin cho các nhà quản lý biết đợc cụ thể các loại chi phí đã chi ra và tác
dụng của các loại chi phí đó nhằm giúp cho các nhà quản lý xây dựng dự toán,
quản lý tài sản, vật t, tiền vốn, lao động có hiệu quả từ đó có biện pháp phấn đầu
hạ giá thành, nâng cao chất lợng sản phẩm, điều chỉnh hoạt động cho hợp lý hơn,
cụ thể gồm những công việc sau:
+Tổ chức các hóa đơn, chứng từ liên quan đến các loại chi phí của từng
công trình.
+Tổ chức cán bộ phụ trách từng mảng công việc một cách khoa học
nhất.
+Tổ chức vận dụng các tài khoản kế toán để hạch toán chi phí sản xuất
và giá thành sản phẩm.
+Tổ chức kiểm tra đối chiếu số liệu giữa sổ cái và bảng tổng hợp chi
tiết chi phí, sổ theo dõi chi phí sản xuất kinh doanh dở dang.
+Tổ chức tổng hợp số liệu, lập các báo cáo tài chính kế toán nh: bảng
cân đối kế toán, báo cáo kết quả kinh doanh cuối kỳ.
+Tổ chức lập các báo cáo chi phí sản xuất, định kỳ tổ chức phân tích
chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm ở doanh nghiệp.
II.Chi phí sản xuất sản phẩm xây lắp
1.Nội dung kinh tế
5
Bất kỳ một doanh nghiệp nào muốn tiến hành sản xuất kinh doanh đều phải
hội tụ đầy đủ 3 yếu tố cơ bản là:
+Lao động của con ngời
+T liệu lao động nh nhà xởng, máy móc thiết bị và các tài sản cố định khác.
+Đối tợng lao động nh nguyên vật liệu, nhiên liệu
Sự tham gia của 3 yếu tố này vào quá trình sản xuất của doanh nghiệp sẽ tạo ra
một lợng sản phẩm, dịch vụ phục vụ cho nhu cầu của con ngời.
Giá trị những sản phẩm dịch vụ đó gồm 3 bộ phận: C, V, M trong đó:
C: Là toàn bộ giá trị t liệu sản xuất đã tiêu hao trong quá trình sản xuất và tiêu
thụ sản phẩm, dịch vụ nh: khấu hao tài sản cố định, chi phí nguyên vật liệu, năng
lợng, công cụ, dụng cụ, nhiên liệu, bộ phận này còn đợc gọi là hao phí lao động
quá khứ (vật hóa).
V: Là chi phí về tiền lơng, tiền công phải trả cho ngời lao động tham gia vào
quá trình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm dịch vụ, bộ phận này đợc gọi là hao phí
lao động sống.
M: Là giá trị do lao động sống tạo ra trong quá trình sản xuất sản phẩm, dịch
vụ
ở góc độ doanh nghiệp, để sản xuất và tiêu thụ sản phẩm doanh nghiệp phải
bỏ ra 2 bộ phận chi phí là C và V.
Trong kinh doanh xây lắp, chi phí sản xuất kinh doanh là biểu hiện
bằng tiền của toàn bộ các khoản chi phí về lao động sống và lao động vật hóa
phát sinh trong quá trình sản xuất kinh doanh trong một kỳ kinh doanh nhất
định (tháng, quý, năm, ) và cấu thành nên giá thành sản phẩm xây lắp.
Chi phí sản xuất của doanh nghiệp kinh doanh xây lắp phát sinh thờng
xuyên trong suốt quá trình hoạt động sản xuất của doanh nghiệp. Nhng để phục
vụ cho quản lý và hạch toán kinh doanh, chi phí sản xuất phải đợc tính toán, tập
hợp theo từng thời kỳ: hàng tháng, hàng quý, hàng năm phù hợp với kỳ báo cáo.
Chỉ những chi phí sản xuất mà doanh nghiệp bỏ ra trong kỳ mới đợc tính vào chi
phí sản xuất trong kỳ.
Trong kỳ, một doanh nghiệp xây lắp có nhiều khoản chi phí liên quan
đến hoạt động xây lắp và các hoạt động khác không có tính chất sản xuất nh hoạt
động bán hàng, hoạt động quản lý nhng chỉ những chi phí để tiến hành các hoạt
động có tính chất sản xuất mới đợc tính vào chi phí sản xuất. Do đó, có những
khoản chi trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp không đợc coi là
chi phí sản xuất nh chi phí trả cho các khoản tiền phạt về vi phạm hợp đồng, hao
hụt nguyên vật liệu ngoài định mức, lãi phải trả do vay quá hạn thanh toán
Trong khái niệm chi phí sản xuất, ta cần phân biệt 2 khái niệm chi phí và
chi tiêu. Tuy chi phí và chi tiêu là hai khái niệm khác nhau nhng chúng có mối
liên hệ mật thiết với nhau. Chi tiêu là cơ sở phát sinh của chi phí, không có chi
tiêu thì không có chi phí. Tuy nhiên, giữa chúng lại có những điểm khác biệt:
Về mặt lợng:
- Chi phí là những hao phí về tài sản và lao động có liên quan đến khối l-
ợng sản phẩm xây lắp đợc tạo ra trong kỳ chứ không phải mọi khoản
chi ra trong kỳ hạch toán.
6
- Chi tiêu là sự giảm đi đơn thuần các loại vật t, tài sản của doanh nghiệp
bất kể nó đợc dùng vào mục đích gì.
Về thời gian:
- Có những khoản chi tiêu của kỳ này nhng cha đợc tính vào chi phí và
cũng có những khoản tính vào chi phí nhng cha chi tiêu. Sỏ dĩ có sự
khác biệt trên là do đặc điểm, tính chất vận động và phơng thức di
chuyển giá trị của từng loại tài sản vào quá trình xây lắp và yêu cầu
chung của quản lý.
Giữa chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm cũng có mối liên quan chặt
chẽ với nhau: chi phí sản xuất là một trong các yếu tố cơ bản cấu thành nên giá
thành sản phẩm, tuy nhiên giữa chúng lại có các điểm khác nhau:
Về mặt lợng:
- Chi phí sản xuất- kinh doanh bao gồm tất cả các chi phí bỏ ra trong kỳ của
hoạt động kinh doanh chính, hoạt động kinh doanh khác trong doanh
nghiệp.
- Giá thành sản phẩm chỉ bao gồm những chi phí liên quan đến khối lợng
sản phẩm sản xuất và tiêu thụ trong kỳ.
Trong quan hệ với kỳ hạch toán:
- Chi phí sản xuất kinh doanh gắn với một kỳ hạch toán nhất định
- Giá thành sản phẩm bao gồm cả chi phí dở dang đầu kỳ (là chi phí phát
sinh trong kỳ trớc) nhng không bao gồm phần chi phí phát sinh trong kỳ
này đợc phân bổ vào giá trị sản phẩm dở dang cuối kỳ.
Trong các doanh nghiệp nói chung và trong các doanh nghiệp kinh doanh
xây láp nói riêng có rất nhiều các khoản chi phí khác nhau, do đó việc quản lý chi
phí sản xuất không thể chỉ căn cứ vào số liệu tổng hợp mà phải theo dõi, tập hợp
riêng số liệu của từng loại chi phí, từng nhóm chi phí. Vì vậy việc tiến hành phân
loại chi phí là rất cần thiết đối với tất cả các doanh nghiệp.
2.Phân loại chi phí sản xuất trong các doanh nghiệp xây lắp
Chi phí sản xuất trong các doanh nghiệp xây lắp bao gồm nhiều khoản chi
phí khác nhau về nội dung kinh tế, tính chất chi phí, vai trò của nó trong việc tạo
ra sản phẩm, địa chỉ của từng loại chi phí Để tạo điểu kiện thuận lợi cho công
tác hạch toán chi phí và tính giá thành sản phẩm để từ đó tính đứng kết quả của
từng loại hoạt động kinh doanh thì việc phân loại chi phí đợc coi nh một yêu cầu
khách quan đối với các doanh nghiệp.
Phân loại chi phí sản xuất là việc xắp sếp những chi phí sản xuất vào
từng loại, từng nhóm khác nhau theo những tiêu thức nhất định. Việc hạch
toán chi phí theo từng loại tiêu thức sẽ nâng cao tính chi tiết của thông tin, là cơ
cở cho việc phấn đấu hạ chi phí, nâng cao hiệu quả sử dụng và tăng cờng hạch
toán kế toán trong các đơn vị xây lắp.
Thông thờng, khi phân loại chi phí ngời ta thờng dựa vào 2 tiêu thức quan
trọng nhất đó là nội dung kinh tế ban đầu của chi phí và chức năng của chi phí
đối với toàn bộ quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh.
2.1. Phân loại chi phí sản xuất theo nội dung kinh tế
7
Theo cách phân loại này, các chi phí có cùng một nội dung kinh tế đợc xếp
chung vào một yếu tố, không phân biệt chi phí đó phát sinh ở lĩnh vực sản xuất
nào, ở đâu và mục đích hay tác dụng của nó nh thế nào. Toàn bộ chi phí phát sinh
trong kỳ đợc chia làm các yếu tố chi phí sau:
Chi phí nguyên vật liệu
Bao gồm toàn bộ các chi phí về các loại nguyên vật liệu chính, vật liệu phụ
(xi măng, cát, thép, ), nhiên liệu (xăng, dầu ), công cụ dụng cụ, phụ tùng thay
thế (giàn giáo, cuốc, xẻng ) đợc sử dụng cho hoạt động xây lắp trong kỳ.
Chi phí nhân công
Bao gồm toàn bộ số tiền lơng, tiền công, phụ cấp và các khoản trích theo l-
ơng nh bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội, kinh phí công đoàn mà doanh nghiệp phải
chịu.
Chi phí khấu hao tài sản cố định
Bao gồm toàn bộ số tiền trích khấu hao tài sản cố định đợc sử dụng trong kỳ.
Chi phí dịch vụ mua ngoài
Bao gồm toàn bộ số tiền mà doanh nghiệp đã chi trả cho các loại dịch vụ
mà doanh nghiệp đã mua từ bên ngoài nh: tiền nớc, tiền điện, tiền bu phí về
phục vụ cho các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Chi phí khác bằng tiền
Bao gồm toàn bộ các chi phí khác dùng cho hoạt động sản xuất kinh
doanh ngoài 4 yếu tố trên.
Cách phân loại này giữ đợc tính nguyên vẹn của từng yếu tố cũng nh từng
khoản mục chi ra bất kể nó đợc chi ra ở đâu và có quan hệ nh thế nào đối với quá
trình sản xuất.
Việc phân loại chi phí theo tiêu thức này có ý nghĩa lớn trong quản lý chi
phí sản xuất, nó không chỉ cho biết kết cấu, tỷ trọng của từng yếu tố chi phí để
đánh giá phân tích tình hình thực hiện dự toán chi phí sản xuất lập báo cáo chi phí
sản xuất theo yếu tố ở bảng thuyết minh báo cáo tài chính, cung cấp tài liệu tham
khảo để lập dự toán chi phí sản xuất, lập kế hoạch cung ứng vật t, kế hoạch quỹ l-
ơng, tính toán nhu cầu vốn lu động cho kỳ sau,mà còn cho phép xem xét mối
quan hệ tỷ lệ giữa quá trình lao động sống và lao động quá khứ, từ đó tính toán
thu nhập, đánh giá khái quát tình hình tăng năng suất lao động của doanh nghiệp
2.2Phân loại chi phí sản xuất theo phơng pháp tập hợp chi phí và mối
quan hệ với đối tợng chịu chi phí
Theo cách phân loại này, chi phí sản xuất đợc chia làm hai loại:
Chi phí trực tiếp: là những khoản chi phí có liên quan trực tiếp đến quá
trình sản xuất tạo ra sản phẩm hoặc thực hiện một giai đoạn công việc nhất định.
Những khoản chi phí này có thể đợc tập hợp theo từng công trình, hạng mục công
trình bao gồm vật liệu xây dựng, tiền lơng công nhân trực tiếp sản xuất, khấu hao
máy móc thực hiện trong quá trình thi công
Chi phí gián tiếp: là những chi phí phục vụ cho quá trình hoạt động tổ
chức và quản lý, không tác động trực tiếp tới quá trình sản xuất sản phẩm hay
thực hiện mội giai đoạn công việc. Kết cấu của chi phí gián tiếp cũng tơng tự nh
kết cấu của chi phí trực tiếp nhng những chi phí này phát sinh ở bộ phận quản lý
8
đội, phân xởng sản xuất của đơn vị xây lắp nên kế toán phải tiến hành phân bổ
cho các đối tợng có liên quan theo một tiêu thức thích hợp.
Cách phân loại này có ý nghĩa lớn đối vời việc xác định phơng pháp tập
hợp và phân bổ chi phí cho các đối tợng một cách hợp lý. Do mỗi loại chi phí trên
có tác dụng khác nhau đến khối lợng và chất lợng công trình nên việc định rõ 2
loại chi phí này có ý nghĩa thực tiễn trong việc đánh giá tính hợp lý của chi phí và
tìm biện pháp không ngừng giảm chi phí gián tiếp, nâng cao hiệu quả sử dụng
vốn đầu t của doanh nghiệp đồng thời cung cấp thông tin cho quản trị doanh
nghiệp và đa ra quyết định hợp lý trong vấn đề đầu t vốn.
2.3. Phân loại chi phí sản xuất theo mục đích, công dụng của chi phí
Theo cách phân loại này chi phí sản xuất đợc chia thành các khoản mục
sau:
Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp: là toàn bộ vật liệu chính, vật liệu phụ,
cấu kiện, các bộ phận kết cấu công trình sử dụng trong quá trình xây lắp. Nó
không bao gồm giá trị nguyên vật liệu phục vụ cho máy thi công, vật liệu quản lý
đội, công trình, chi phí nguyên vật liệu phục vụ cho sản xuất chung.
Chi phí nhân công trực tiếp: là chi phí tiền lơng cơ bản, phụ cấp của
các công nhân trực tiếp sản xuất để hình thành sản phẩm xây lắp.
Chi phí sử dụng máy thi công: là toàn bộ chi phí trực tiếp phát sinh
trong quá trình sử dụng máy thi công để thực hiện khối lợng xây lắp bằng máy
bao gồm chi phí khấu hao máy móc, tiền thuê máy, tiền lơng công nhân điều
khiển máy, chi phí về nhiên liệu, động lực dùng cho máy thi công
Chi phí sản xuất chung:là những khoản chi phí phục vụ cho sản xuất
của đội, công trình xây dựng nhng không đợc tính trực tiếp bao gồm tiền lơng cho
nhân viên quản lý đội, các khoản trích theo lơng phải trả cho công nhân trực tiếp
xây lắp, nhân viên điều khiển máy thi công, chi phí dịch vụ mua ngoài, chi phí
bằng tiền khác.
Cách phân loại này có tác dụng phục vụ quản lý sản xuất theo định mức,
cung cấp số liệu cho công tác tính giá thành sản phẩm, phân tích tình hình thực
hiện giá thành từ đó làm tài liệu tham khảo để lập định mức chi phí và kế hoạch
giá thành cho kỳ sau.
Xuất phát từ đặc điểm của sản xuất kinh doanh xây lắp và phơng pháp
lập dự toán trong kinh doanh xây lắp là lập dự toán cho từng đối tợng theo khoản
mục giá thành nên phơng pháp tập hợp chi phí này đợc sử dụng phổ biến nhất
trong các doanh nghiệp kinh doanh xây lắp.
Ngoài các cách phân loại trên thì tùy thuộc vào yêu cầu sử dụng thông tin
và yêu cầu quản trị doanh nghiệp mà kế toán doanh nghiệp còn phải phân loại chi
phí theo những tiêu thức khác nhau:
- Phân loại chi phí sản xuất theo mối quan hệ giữa chi phí sản
xuất và quy mô sản xuất thì chi phí sản xuất đợc chia làm hai loại là chi
phí cố định và chi phí biến đổi.
- Phân loại chi phí theo nội dung cấu thành chi phí thì chi phí
sản xuất đợc chia làm hai loại là chi phí đơn nhất và chi phí biến đổi.
Cách phân loại này giúp nhận thức vị trí của từng loại chi phí trong việc
9
hình thành sản xuất để tổ chức công tác kế toán tập hợp chi phí sản xuất
thích hợp với từng loại.
Tóm lại, mỗi cách tập hợp chi phí sản xuất đều có ý nghĩa riêng phục vụ
cho từng đối tợng quản lý, từng đối tợng cung cấp thông tin cụ thể nhng giữa các
cách phân loại này luôn bổ sung cho nhau nhằm quản lỳ có hiệu quả toàn bộ chi
phí phát sinh trong phạm vi từng doanh nghiệp, trong từng thời kỳ nhất định.
III. Giá thành sản phẩm xây lắp
1. Nội dung kinh tế
Để thi công một công trình hay hoàn thành một khối lợng công việc nhất
định cần phải đầu t vào quá trình sản xuất, thi công một khối lợng, chi phí nhất
định.
Những chi phí này cấu thành nên giá thành công trình hay hạng mục công
trình hoàn thành. Nh vậy, giá thành sản phẩm xây lắp bao gồm toàn bộ chi phí
sản xuất gồm chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp, chi phí
sản xuất chung tính cho từng công trình hay hạng mục công trình, khối lợng công
tác xây lắp hoàn thành đến một giai đoạn quy ớc đã hoàn thành, nghiệm thu, bàn
giao và chấp nhận thanh toán.
Tại doanh nghiệp xây dựng, giá thành sản phẩm xây lắp mang tính đặc
thù và là một chỉ tiêu chất lợng quan trọng trong hoạt động thực tiễn của mỗi
doanh nghiệp. Nó phản ánh kết quả sản xuất của từng doanh nghiệp, là cơ sở xác
định kết quả tài chính, là một trong những yêu cầu hạch toán của nền kinh tế thị
trờng.
Nói cách khác, chi phí sản xuất chỉ là một mặt thể hiện sự hao phí, để
đánh giá chất lợng kinh doanh của các doanh nghiệp thì chi phí sản xuất phải đợc
xem xét trong mối quan hệ với mặt thứ hai cũng là một mặt quan trọng trong quá
trình sản xuất kinh doanh đó là kết quả sản xuất thu đợc. Quan hệ so sánh đó đã
hình thành nên chỉ tiêu Giá thành sản phẩm
Giá thành sản phẩm xây lắp là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ hao
phí về lao động sống và lao động vật hóa để hoàn thành một khối lợng xây lắp
theo quy định.
Về bản chất, giá thành là kết quả của việc chuyển dịch giá trị của các
yếu tố chi phí vào sản phẩm xây lắp, công việc, lao vụ hoàn thành. Giá thành sản
phẩm là một trong những chỉ tiêu kinh tế tổng hợp phản ánh chất lợng hoạt động
sản xuất kinh doanh và quản lý kinh tế của doanh nghiệp, phản ánh những nỗ lực
kinh doanh của doanh nghiệp trong việc phấn đấu áp dụng quy trình công nghệ
mới, hoàn thiện kỹ thuật, giảm thời gian thi công, sử dụng tiết kiệm vật t, sử dụng
hợp lý công nhân để từ đó tăng vòng quay của vốn, tăng năng suất lao động
nhằm đạt mục đích nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh.
Nh vậy, giá thành sản phẩm là một phạm trù của sản xuất hàng hóa, phản
ánh lợng giá trị của lao động sống và lao động vật hóa đã thực sự chi ra cho sản
xuất sản phẩm. Trong giá thành sản phẩm chỉ bao gồm những chi phí chi ra trực
tiếp hoặc gián tiếp vào quá trình sản xuất phải đợc bồi hoàn để tái sản xuất ở
doanh nghiệp mà không bao gồm những chi phí phát sinh trong kỳ kinh doanh
của doanh nghiệp. Những chi phí đa vào giá thành sản phẩm phải phản ánh đợc
giá trị thực của các t liệu sản xuất tiêu dùng cho sản xuất, tiêu thụ và các khoản
10
chi tiêu khác có liên quan tới việc bù đắp giản đơn hao phí lao động sống. Mọi
cách tính toán chủ quan, không phản ánh đúng các yếu tố giá trị trong giá thành
đều có thể dẫn đến việc phá vỡ các quan hệ hàng hoá- tiền tệ, không xác định đợc
hiệu quả kinh doanh và không thực hiện đợc tái sản xuất giản đơn và tái sản xuất
mở rộng.
2.Phân loại giá thành sản phẩm xây lắp
Để đáp ứng các yêu cầu của quản lý, hạch toán và kế hoạch hóa giá
thành cũng nh yêu cầu xây dựng giá cả hàng hóa, giá thành đợc xem xét dới
nhiều góc độ khác nhau và có nhiều phạm vi tính toán khác nhau, do đó kế toán
cần phân biệt các loại giá thành khác nhau theo các tiêu thức sau:
2.1. Căn cứ vào nguồn số liệu và thời điểm tính giá:
Theo cách phân loại này, giá thành sản phẩm xây lắp đợc chia làm ba
loại:
Giá thành dự toán là tổng số các chi phí dự toán để hoàn thành một khối
lợng xây lắp. Giá dự toán đợc xác định trên cơ sở các định mức theo thiết kế đợc
duyệt và khung giá quy định đơn giá xây lắp áp dụng vào từng vùng lãnh thổ,
từng địa phơng do cấp có thẩm quyền ban hành và dựa theo mặt bằng giá cả thị
trờng.
Giá dự toán đợc tính theo công thức sau:
Giá thành dự toán của công
trình hạng mục
=
Giá trị dự toán của công trình,
hạng mục công trình
- Lãi định mức
Trong đó:
Giá trị dự toán là chỉ tiêu dùng làm căn cứ cho các doanh nghiệp xây
lắp xây dựng kế hoạch sản xuất của đơn vị, đồng thời làm căn cứ để các cơ quan
quản lý Nhà nớc giám sát hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp
xây lắp. Đó là chi phí cho công tác xây dựng, lắp ráp các cấu kiện, lắp đặt các
máy móc thiết bị gồm các chi phí trực tiếp, chi phí chung và lợi nhuận định
mức. Do đặc điểm của hoạt động xây lắp mang tính đơn chiếc nên mỗi sản phẩm
xây lắp có giá trị dự toán riêng.
Lợi nhuận định mức là chỉ tiêu Nhà nớc quy định ngành xây dựng phải
tạo ra để tích lũy cho xã hội.
Giá thành dự toán là cơ sở để xây dựng, lập kế hoạch khối lợng các
công tác xây lắp và thanh toán các công tác hoàn thành, là căn cứ để xác định kết
quả kinh doanh của doanh nghiệp và để kiểm tra các chỉ tiêu giá thành sản phẩm
xây lắp của doanh nghiệp, đây cũng chính là giá nhận thầu của các đơn vị xây lắp
với các chủ đầu t.
Do đặc điểm của sản phẩm xây lắp nên giá thành dự toán xây lắp mang
tính xã hội, nó phản ánh trình độ tổ chức kỹ thuật nói chung của toàn xã hội vì cơ
sở để xác định là khối lợng đợc duyệt, cả định mức dự toán và đơn giá xây dựng
cơ bản hiện hành. Thông qua tổng dự toán có thể đánh giá thành tích của doanh
nghiệp, đó là hạn mức chi phí cao nhất mà doanh nghiệp chi ra để đảm bảo có lãi,
là tiêu chuẩn phấn đấu hạ định mức thực tế.
Giá thành định mức là giá thành sản phẩm đợc tính toán trên cơ sở xác
định mức chi phí hiện hành và chỉ tính cho đơn vị sản phẩm.
11
Việc tính giá thành định mức đợc thực hiện trớc khi chế tạo sản phẩm.
Giá thành định mức là công cụ quản lý định mức của doanh nghiệp, là thớc đo để
xác định chính xác kết quả sử dụng tài sản, vật t, lao động trong sản xuất, giúp
cho doanh nghiệp đánh giá đúng đắn các giải pháp kinh tế, kỹ thuật đã thực hiện,
nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh.
Giá thành kế hoạch công tác xây lắp là giá thành đợc xây dựng trên cơ
sở chi phí sản xuất kế hoạch và sản lợng kế hoạch. Việc tính giá thành kế hoạch
do bộ phận kế hoạch của doanh nghiệp thực hiện và đợc tiến hành trớc khi bắt
đầu quá trình sản xuất, chế tạo sản phẩm. Giá thành kế hoạch là mục tiêu phấn
đấu của doanh nghiệp, là căn cứ để so sánh, phân tích đánh giá tình hình thực
hiện kế hoạch giá thành và kế hoạch hạ giá thành của doanh nghiệp.
Giá thành kế hoạch công
tác xây lắp
=
Giá thành dự toán công
tác xây lắp
-
Mức hạ giá dự
toán kế hoạch
Đối với những doanh nghiệp không có giá dự toán thì giá thành kế hoạch
đợc xác định trên cơ sở giá thành thực tế của năm trớc và các định mức kinh tế,
kỹ thuật của doanh nghiệp, là cơ sở để phấn đấu hạ giá thành trong kế hoạch.
Giá thành thực tế là giá thành đợc tính dựa trên cơ sở chi phí sản xuất
thực tế phát sinh để hoàn thành bàn giao khối lợng xây lắp mà đơn vị đã nhận
thầu. Nó bao gồm các chi phí theo định mức, vợt định mức, không định mức (bao
gồm: thiệt hại ngừng thi công, thiệt hại phá đi làm lại, lãng phí vật t tiền vốn, ),
tập hợp trong kỳ và sản lợng thực tế đã sản xuất trong kỳ, giá thành thực tế chỉ có
thể tính đợc sau khi đã kết thúc quá trình sản xuất.
Giá thành sản phẩm thực tế là chỉ tiêu kinh tế tổng hợp, phản ánh kết quả
phấn đấu của doanh nghiệp trong việc tổ chức và sử dụng các giải pháp kinh tế-
tổ chức- kỹ thuật để thực hiện quá trình sản xuất sản phẩm, là cơ sở để xác định
kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Sản phẩm xây lắp mang tính cá biệt nên khi hoàn thành mỗi sản phẩm có
một giá thành thực tế riêng. Mặt khác, giá bán (giá nhận thầu) sản phẩm xây lắp
đợc xác định từ trớc khi nó đợc thi công nên giá thành thực tế của sản phẩm xây
lắp chỉ quyết định đến lãi, lỗ của việc thi công công trình.
Việc xác định và so sánh các loại giá thành ở trên có ý nghĩa vô cùng
quan trọng đối với hoạt động của doanh nghiệp. Giá thành dự toán và giá thành
kế hoạch thờng do bộ phận kê hoạch của doanh nghiệp đảm nhiệm, còn giá thành
thực tế là do kế toán xác định. Việc so sánh giá thành dự toán với giá thành thực
tế cho phép ta xác định đợc trình độ quản lý của đơn vị xây lắp trong mối quan hệ
với các đơn vị xây lắp khác, việc so sánh giữa giá thành kế hoạch và giá thành
thực tế cho phép ta đánh giá sự tiến bộ của doanh nghiệp xây lắp trong điều kiện
cụ thể về cơ sở vật chất, trình độ tổ chức quản lý của bản thân doanh nghiệp đó.
Trên cơ sở đó, ngời ta lập nên nguyên tắc khi xây dựng giá thành, tổ
chức thực hiện kế hoạch giá thành để đảm bảo hoạt động sản xuât kinh doanh có
lãi:
Giá thành dự toán Giá thành kế hoạch Giá thành thực tế
2.2. Căn cứ vào phạm vi phát sinh chi phí:
Theo góc độ này, giá thành sản phẩm đợc chia làm hai loại là giá thành sản
xuất và giá thành toàn bộ.
12
Giá thành sản xuất là chỉ tiêu phản ánh tất cả những chi phí phát sinh
liên quan đến việc sản xuất, chế tạo sản phẩm tính cho một công việc, một lao vụ
hoàn thành (bao gồm 3 khoản mục: chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí
nhân công trực tiếp, chi phí sản xuất chung).
Giá thành toàn bộ là chỉ tiêu phản ánh toàn bộ các khoản chi phí phát
sinh liên quan đến việc sản xuất, tiêu thụ sản phẩm.
Giá thành toàn bộ = Giá thành sản xuất + Chi phí ngoài sản xuất
Do yêu cầu sử dụng thông tin của các nhà quản trị doanh nghiệp mà kế
toán còn phải tính toán và cung cấp thông tin thêm về các loại giá thành khác nh:
giá thành hoàn thành của khối lợng xây lắp hoàn chỉnh và giá thành của khối lợng
xây lắp hoàn thành quy ớc.
Giá thành khối lợng xây lắp hoàn chỉnh là giá thành của công trình,
hạng mục công trình bảo đảm chất lợng, kỹ thuật đúng thiết kế, đúng hợp đồng
bàn giao đợc bên A chấp nhận thanh toán.
Giá thành khối lợng xây lắp hoàn thành là giá thành của một khối lợng
xây lắp hoàn thành đến một giai đoạn nhất định và thỏa mãn các điều kiện:
+ Phải nằm trong thiết kế và bảo đảm chất lợng kỹ thuật.
+ Khối lợng phải đợc xác định cụ thể và đợc bên chủ đầu t chấp nhận
thanh toán.
+ Phải đạt đến điểm dừng kỹ thuật hợp lý.
2.3. Các loại giá thành khác:
Trong điều kiện hiện nay, để thi công xây lắp một công trình thì đơn vị
thờng tham gia đấu thầu. Đơn vị thắng thầu là những đơn vị có giá thầu hợp lý
bảo đảm chất lợng thi công công trình. Do vậy, giá thành dự toán của công trình,
hạng mục công trình đợc chia làm 2 loại là giá thành đấu thầu công tác xây lắp và
giá thành hợp đồng công tác xây lắp.
Giá thành đầu thầu xây lắp là loại giá thành dự toán do chủ đầu t đa ra
để các doanh nghiệp xây lắp căn cứ vào đó tính toán giá thành của mình.
Giá thành hợp đồng công tác xây lắp là giá dự toán ghi trong hợp đồng
ký kết giữa chủ đầu t và doanh nghiệp xây lắp sau khi thỏa thuận giao nhận thầu.
Đó chính là giá thành của đơn vị xây lắp thắng thầu.
Trong đó:
Giá thành hợp đồng công tác xây lắp Giá thành đấu thầu công tác xây lắp
2.4. Đối tợng tính giá thành sản phẩm
Chi phí sản xuất đợc tập hợp là cơ sở để tính giá thành. Đối tợng tính giá
thành của các doanh nghiệp xây lắp là các công trình. Khi tính giá thành, trớc hết
ta phải xác định đợc đối tợng tính giá thành, muốn vậy phải căn cứ vào đặc điểm
tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh, quy trình công nghệ sản xuất của doanh
nghiệp. Dựa vào căn cứ trên đối tợng tính giá thành có thể là từng công trình,
hạng mục công trình. Xác định đối tợng tính giá thành đúng, phù hợp với điều
kiện, đặc điểm của doanh nghiệp giúp cho kế toán tổ chức mở sổ kế toán và kiểm
tra tình hình thực hiện kế hoạch giá thành sản phẩm có hiệu quả, đáp ứng yêu cầu
quản lý nội bộ của doanh nghiệp.
13
IV. .Mối quan hệ giữa chi phí sản xuất và giá thành sản
phẩm
Quá trình sản xuất là một quá trình thống nhất gồm 2 mặt: mặt hao phí
sản xuất và mặt kết quả sản xuất. Nếu chi phí biểu hiện mặt hao phí thì giá thành
biểu hiện mặt kết quả của quá trình sản xuất. Tất cả những khoản chi phí phát
sinh (phát sinh trong kỳ, từ kỳ trớc chuyển sang) và các khoản trích trớc có liên
quan đến khối lợng sản phẩm dịch vụ, lao vụ đã hoàn thành trong kỳ sẽ tạo nên
chỉ tiêu giá thành sản phẩm. Do đó, vấn đề tiết kiệm hay lãng phí các yếu tố chi
phí của doanh nghiệp có ảnh hởng trực tiếp đến mức độ dao động của giá thành
sản phẩm. Chúng là hai mặt thống nhất của một quá trình nên giống nhau về chất:
chúng đều là biểu hiện bằng tiền của hao phí lao động sống và lao động vật hóa
trong quá trình sản xuất sản phẩm của doanh nghiệp.
Khi giá trị sản phẩm dở dang (chi phí sản xuất dở dang) đầu kỳ và cuối
kỳ bằng nhau hoặc sản xuất không có dở dang thì tổng giá thành sản phẩm bằng
tổng chi phí sản xuất phát sinh trong kỳ. Nhng nếu chu kỳ sản xuất dài thì do bộ
phận chi phí sản xuất giữa các kỳ không đều nhau nên giữa giá thành và chi phí
sản xuất khác nhau về mặt lợng thể hiện qua sơ đồ sau:
CPSX dở dang đầu kỳ CPSX phát sinh trong kỳ
Tổng giá thành sản phẩm CPSX dở dang cuối kỳ
Hay:
Tổmh giá thành sản
phẩm
=
CPSX dở dang
đầu kỳ
+
CPSX phát sinh
trong kỳ
-
CPSX dở
dang cuối kỳ
Nh vậy, nếu chi phí sản xuất là tổng hợp những chi phí phát sinh trong một
thời kỳ nhất định thì giá thành sản phẩm lại là tổng hợp những chi phí chi ra bất
kỳ ở kỳ nào nhng gắn liền với việc sản xuất và hoàn thành một khối lợng công
việc xây lắp nhất định đợc nghiệm thu, bàn giao, thanh toán. Giá thành sản phẩm
không bao gồm chi phí cho khối lợng dở dang cuối kỳ, những chi phí không liên
quan đến hoạt động sản xuất, những chi phí đã chi ra nhng chờ phân bổ cho kỳ
sau, nhng nó lại bao gồm những chi phí sản xuất cuối kỳ trớc chuyển sang, những
chi phí trích trớc vào giá thành nhng thực tế cha phát sinh và những chi phí của
kỳ trớc phân bổ cho kỳ này.
Về mặt kế toán, hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm là
hai bớc công việc liên tiếp gắn bó hữu cơ với nhau, tập hợp chi phí sản xuất là cơ
sở để tính giá thành sản phẩm. Do vậy, sự chính xác của công tác hạch toán chi
phí sản xuất quyết định tính chính xác của công tác tính giá thành.
Từ mối quan hệ giữa chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm nh ta đã
phân tích ở trên thì việc quản lý giá thành nhất thiết phải gắn liền với quản lý chi
phí sản xuất và hạch toán chi phí sản xuất sao cho hợp lý, đúng đắn là một yêu
cầu có tính chất quyết định đối với quá trình sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp.
14
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét