LINK DOWNLOAD MIỄN PHÍ TÀI LIỆU "Bao cao KTXH Viet Nam 2008 - Chinh phu": http://123doc.vn/document/547728-bao-cao-ktxh-viet-nam-2008-chinh-phu.htm
gần 3 lần năm 2007, đạt mức cao nhất từ trước tới nay. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
thực hiện năm 2008 đạt 11,5 tỷ USD, tăng 43,2% so với năm 2007.
Vốn đầu tư nước ngoài trong các dự án được cấp giấy phép mới năm nay tập trung chủ
yếu vào lĩnh vực công nghiệp và xây dựng với 32,6 tỷ USD, chiếm 54,1% tổng vốn
đăng ký; dịch vụ 27,4 tỷ USD, chiếm 45,5%; nông, lâm nghiệp và thủy sản 252,1 triệu
USD, chiếm 0,4%.
Năm 2008 cả nước có 44 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có dự án được cấp
phép mới, trong đó Ninh Thuận có số vốn đăng ký dẫn đầu với 9,8 tỷ USD, chiếm
16,3% tổng vốn đăng ký; tiếp đến là Bà Rịa-Vũng Tàu 9,3 tỷ USD, chiếm 15,5%; thành
phố Hồ Chí Minh 8,9 tỷ USD, chiếm 14,7%; Hà Tĩnh 7,9 tỷ USD, chiếm 13,1%; Thanh
Hóa 6,2 tỷ USD, chiếm 10,3%; Phú Yên 4,3 tỷ USD, chiếm 7,2%; Hà Nội 3,1 tỷ USD,
chiếm 5,1%.
Trong số các quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam, Ma-lai-xi-a là nhà đầu tư
lớn nhất với 14,9 tỷ USD, chiếm 24,8% tổng vốn đăng ký; tiếp đến là Đài Loan 8,6 tỷ
USD, chiếm 14,3%; Nhật Bản 7,3 tỷ USD, chiếm 12,1%; Xin-ga-po 4,5 tỷ USD, chiếm
7,4%; Bru-nây 4,4 tỷ USD, chiếm 7,3%; Ca-na-đa 4,2 tỷ USD, chiếm 7%.
KẾT QUẢ SẢN XUẤT CỦA CÁC NGÀNH VÀ LĨNH VỰC
Sản xuất nông, lâm nghiệp và thuỷ sản
Giá trị sản xuất nông, lâm nghiệp và thuỷ sản năm 2008 theo giá so sánh 1994 ước tính
đạt 212,0 nghìn tỷ đồng, tăng 5,6% so với năm 2007, bao gồm giá trị sản xuất nông
nghiệp đạt 155,2 nghìn tỷ đồng, tăng 5,4%; giá trị sản xuất lâm nghiệp đạt 6,7 nghìn tỷ
đồng, tăng 2,2% ; giá trị sản xuất thuỷ sản đạt 50,1 nghìn tỷ đồng, tăng 6,7%. Tình hình
sản xuất cụ thể từng ngành như sau:
Nông nghiệp
Sản lượng lúa cả năm 2008 ước tính đạt 38,6 triệu tấn, tăng 2,7 triệu tấn (7,5%) so với
năm 2007 do diện tích gieo trồng tăng 200,5 nghìn ha và năng suất tăng 2,3 tạ/ha. Trong
sản lượng lúa cả năm, lúa đông xuân đạt 18,3 triệu tấn, tăng 7,6% so với năm trước; lúa
hè thu 11,4 triệu tấn, tăng 12%; lúa mùa 8,9 triệu tấn, tăng 2%. Nếu tính cả 4,5 triệu tấn
ngô thì tổng sản lượng lương thực có hạt năm 2008 đạt 43,2 triệu tấn, tăng 7,5% so với
năm trước.
Sản lượng một số cây hàng năm khác cũng tăng cao so với năm 2007 do cả diện tích và
năng suất đều tăng, trong đó sản lượng sắn ước tính đạt 9,1 triệu tấn, tăng 11%; lạc 0,5
triệu tấn, tăng 4%; rau 11,5 triệu tấn, tăng 3,5%; đậu 185,8 nghìn tấn, tăng 5,1%.
Cây công nghiệp lâu năm tiếp tục phát triển theo hướng sản xuất hàng hoá cho tiêu
dùng trong nước và cho xuất khẩu. Diện tích trồng chè đạt 129,6 nghìn ha, tăng 2,5% so
với năm 2007, sản lượng đạt 759,8 nghìn tấn, tăng 7,5%; cà phê 525,1 nghìn ha, tăng
3,1%, sản lượng 996,3 nghìn tấn, tăng 3,6%; cao su 618,6 nghìn ha, tăng 11,2%, sản
lượng 662,9 nghìn tấn, tăng 8,7%; hồ tiêu 50 nghìn ha, tăng 3,3%, sản lượng 104,5
nghìn tấn, tăng 17%.
Chăn nuôi gia súc, gia cầm đang từng bước được khôi phục sau những thiệt hại do thiên
tai và dịch bệnh, tuy nhiên tốc độ tái đàn còn chậm. Theo kết quả điều tra chăn nuôi tại
thời điểm 01/10/2008, cả nước có 2898 nghìn con trâu, giảm 3,3% so với thời điểm
01/8/2007; đàn bò 6338 nghìn con, giảm 5,8%; đàn lợn 26702 nghìn con, tăng 0,5%;
đàn gia cầm phát triển nhanh hơn với số lượng 247,3 triệu con, tăng 9,4%. Tính đến
ngày 23/12/2008, dịch cúm gia cầm và dịch tai xanh trên lợn đã được khống chế. Tuy
nhiên, dịch lở mồm long móng chưa qua 21 ngày vẫn còn ở 04 tỉnh: Yên Bái, Thái
Bình, Hà Tĩnh và Nghệ An.
Lâm nghiệp
Diện tích rừng trồng tập trung năm 2008 ước tính đạt 210,8 nghìn ha, tăng 6,6% so với
năm 2007; khoanh nuôi tái sinh đạt 944,4 nghìn ha, giảm 0,8%; diện tích rừng được
chăm sóc 486,2 nghìn ha, giảm 1,2%; sản lượng gỗ khai thác đạt 3562,3 nghìn m3, tăng
2,9%. Do công tác kiểm lâm tiếp tục được tăng cường nên hiện tượng cháy rừng, chặt
phá rừng năm 2008 đã giảm nhiều so với năm 2007. Tổng diện tích rừng bị thiệt hại là
3919,7 ha, giảm 39,5%, trong đó diện tích rừng bị cháy là 1677,3 ha, giảm 67,3%.
Thuỷ sản
Sản lượng thuỷ sản năm 2008 ước tính đạt 4582,9 nghìn tấn, tăng 9,2% so với năm
2007, trong đó cá 3444 nghìn tấn, tăng 11,2%; tôm 505,5 nghìn tấn, tăng 1,9%. Sản
lượng thuỷ sản nuôi trồng tăng khá, đạt 2448,9 nghìn tấn và tăng 15,3% so với năm
2007, chủ yếu do các địa phương tiếp tục chuyển đổi và mở rộng diện tích nuôi trồng
theo hướng đa canh, đa con kết hợp. Tuy nhiên, do phát triển ồ ạt diện tích nuôi trồng
cá tra dẫn đến mất cân đối cung, cầu trên thị trường nên đã xảy ra tình trạng tồn đọng số
lượng lớn cá tra đến kỳ thu hoạch trong các hộ. Chính phủ đã chỉ đạo ngân hàng cho
các doanh nghiệp chế biến thuỷ sản vay vốn với lãi suất thấp để thu mua cá tra nguyên
liệu nên đã góp phần tích cực giải quyết khó khăn cho các hộ nuôi.
Sản lượng thuỷ sản khai thác năm 2008 ước tính đạt 2134 nghìn tấn, tăng 2,9% so với
năm 2007, trong đó khai thác biển đạt 1938 nghìn tấn, tăng 3,3%. Hoạt động khai thác
thuỷ sản những tháng đầu năm nay thuận lợi hơn so với năm trước do không có mưa
bão lớn xảy ra, nhưng giá xăng dầu và các chi phí khác cho đi biển liên tục tăng trong 9
tháng đầu năm đã hạn chế ngư dân ra khơi đánh bắt. Tuy nhiên, vào những tháng cuối
năm, giá xăng dầu đã giảm mạnh cùng với chính sách của Chính phủ về hỗ trợ tiền xăng
dầu, tiền mua mới, đóng mới và thay máy tàu đã khuyến khích ngư dân tăng cường bám
biển.
Sản xuất công nghiệp
Giá trị sản xuất công nghiệp năm 2008 theo giá so sánh 1994 ước tính tăng 14,6% so
với năm 2007, bao gồm khu vực kinh tế Nhà nước tăng 4%; khu vực kinh tế ngoài Nhà
nước tăng 18,8%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 18,6%, trong đó dầu khí giảm
4,3%. Trong các ngành công nghiệp, giá trị sản xuất ngành công nghiệp chế biến năm
2008 ước tính đạt 580,2 nghìn tỷ đồng, tăng 16% so với năm 2007, chiếm tỷ trọng lớn
nhất trong tổng giá trị sản xuất toàn ngành với 88,9%; ngành công nghiệp điện, ga và
nước đạt 37 nghìn tỷ đồng, tăng 13,4%, chiếm 5,7%; giá trị sản xuất của toàn ngành
công nghiệp khai thác đạt 35,6 nghìn tỷ đồng, giảm 3,5% do lượng dầu thô khai thác
giảm, chiếm tỷ trọng 5,4%.
Một số sản phẩm công nghiệp chủ yếu năm 2008 phục vụ tiêu dùng trong nước và xuất
khẩu vẫn duy trì được tốc độ tăng cao so với năm 2007 là: Xe tải tăng 40,6%; xe chở
khách tăng 38,3%; thủy hải sản chế biến tăng 29,1%; máy giặt tăng 28%; quần áo người
lớn tăng 27,7%; biến thế điện tăng 22,6%; tủ lạnh, tủ đá tăng 22,2%; sữa bột tăng
18,6%; nước máy thương phẩm tăng 15,2%; ti vi tăng 15%; giày thể thao tăng 14,6%;
điện sản xuất tăng 12,3%; xi măng tăng 9,6%. Tuy nhiên, nhiều sản phẩm quan trọng
khác chỉ đạt tốc độ tăng thấp hoặc giảm sút so với năm trước như: Xe máy tăng 5,5%;
điều hòa nhiệt độ tăng 4,6%; giấy, bìa tăng 2,3%; phân hóa học tăng 1%; thép tròn giảm
10,6%; dầu thô khai thác giảm 6,6%; than sạch giảm 6,1%; sơn hóa học giảm 1,9%; vải
dệt từ sợi bông giảm 1,8%.
Các địa phương có quy mô sản xuất công nghiệp lớn đạt tốc độ tăng giá trị sản xuất
công nghiệp cao hơn mức tăng chung toàn ngành là: Vĩnh Phúc tăng 21,8%; Bình
Dương tăng 21,5%; Đồng Nai tăng 20,7%; Hải Phòng tăng 18,5%; Cần Thơ tăng
17,6%; Thanh Hoá tăng 16,9%. Một số tỉnh/thành phố lớn đạt tốc độ tăng thấp, thậm
chí giảm so với năm trước là: Hà Nội tăng 12,9%; thành phố Hồ Chí Minh tăng 12%;
Quảng Ninh tăng 10,4%; Đà Nẵng tăng 6,1%; Bà Rịa-Vũng Tàu giảm 0,4%.
Thương mại
Tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ tiêu dùng
Hoạt động thương mại và dịch vụ năm 2008 kém sôi động so với năm 2007 do giá cả
hàng hoá và dịch vụ tăng cao, dẫn đến sức mua trong dân giảm đáng kể, sản phẩm sản
xuất ra tiêu thụ chậm. Tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ tiêu dùng theo
giá thực tế năm 2008 ước tính đạt 968,1 nghìn tỷ đồng, tăng 31% so với năm 2007 (nếu
loại trừ yếu tố tăng giá, mức tăng chỉ đạt 6,5%), trong đó khu vực kinh tế Nhà nước đạt
112,9 nghìn tỷ đồng, tăng 20,4%; kinh tế cá thể đạt 538,1 nghìn tỷ đồng, tăng 32,2%;
kinh tế tư nhân đạt 284,5 nghìn tỷ đồng, tăng 34,3%; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài
đạt 22,7 nghìn tỷ đồng, tăng 20,9%. Trong tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch
vụ tiêu dùng nêu trên, kinh doanh thương nghiệp đạt 798,1 nghìn tỷ đồng, tăng 31,5%;
khách sạn, nhà hàng đạt 109,3 nghìn tỷ đồng, tăng 26,2%; dịch vụ đạt 48,4 nghìn tỷ
đồng, tăng 31,3%; du lịch đạt 12,2 nghìn tỷ đồng, tăng 41,8%. Trong những tháng cuối
năm, mặc dù nhiều chương trình khuyến mãi hấp dẫn dành cho khách hàng được quảng
cáo, giá cả nhiều hàng hoá và dịch vụ đã giảm so với các tháng trước, nhưng do giá vẫn
đứng ở mức cao nên chưa khuyến khích tiêu dùng của dân cư trên thị trường.
Xuất, nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ
Kim ngạch hàng hoá xuất khẩu tháng 12/2008 ước tính đạt 4,9 tỷ USD, tăng 16,2% so
với tháng trước chủ yếu do sản lượng dầu thô khai thác tăng, mức tiêu thụ hàng dệt may
mạnh hơn vào tháng cuối năm và lượng gạo xuất khẩu đã tăng trở lại. Tính chung cả
năm 2008, kim ngạch hàng hoá xuất khẩu ước tính đạt 62,9 tỷ USD, tăng 29,5% so với
năm 2007, bao gồm khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 34,9 tỷ USD,
tăng 25,7%, đóng góp 49,7% vào mức tăng chung của xuất khẩu; khu vực kinh tế trong
nước đạt 28 tỷ USD, tăng 34,7%, đóng góp 50,3%. Trong tổng kim ngạch hàng hoá
xuất khẩu năm 2008, nhóm hàng công nghiệp nặng và khoáng sản chiếm tỷ trọng 31%,
nhóm hàng nông sản chiếm 16,3%.
Nhìn chung, kim ngạch xuất khẩu năm 2008 của các loại hàng hoá đều tăng so với năm
2007, chủ yếu do giá trên thị trường thế giới tăng. Xuất khẩu dầu thô ước tính đạt 13,9
triệu tấn, tương đương 10,5 tỷ USD, tuy giảm 7,7% về lượng nhưng tăng 23,1% về kim
ngạch so với năm trước do giá dầu tăng cao trong những tháng giữa năm. Hàng dệt may
đạt 9,1 tỷ USD, tăng 17,5% so với năm 2007; trong đó Hoa Kỳ vẫn là bạn hàng lớn nhất
về hàng dệt may với 5,1 tỷ USD, tăng 14,2% so với năm 2007; tiếp đến là EU 1,7 tỷ
USD, tăng 13,8%; Nhật Bản 810 triệu USD, tăng 15,9%.
Kim ngạch xuất khẩu giày dép năm 2008 ước tính đạt 4,7 tỷ USD, tăng 17,6% so với
năm trước, trong đó hai thị trường EU và Hoa Kỳ chiếm tỷ trọng trên 74% tổng kim
ngạch xuất khẩu giày dép. Thủy sản ước tính đạt 4,6 tỷ USD, tăng 21,2% so với năm
2007. Thị trường EU vẫn là thị trường chính nhập khẩu hàng thủy sản của Việt Nam,
đạt 1,2 tỷ USD, tăng 26,5% so với năm 2007; tiếp theo là Nhật Bản đạt 850 triệu USD,
tăng 12,8%; Hoa Kỳ 760 triệu USD, tăng 4,3%; Hàn Quốc 310 triệu USD, tăng 12,7%.
Xuất khẩu gạo năm 2008 ước tính đạt 4,7 triệu tấn, đạt 2,9 tỷ USD, tuy chỉ tăng 3,6%
về lượng nhưng tăng 94,8% về kim ngạch so với năm trước, do có mức tăng kỷ lục về
giá xuất khẩu trong năm qua.
Năm 2008 có 8 nhóm hàng/mặt hàng xuất khẩu đạt kim ngạch trên 2 tỷ USD là: Dầu
thô 10,5 tỷ USD; hàng dệt may 9,1 tỷ USD; giày, dép 4,7 tỷ USD; thuỷ sản 4,6 tỷ USD;
gạo 2,9 tỷ USD; sản phẩm gỗ 2,8 tỷ USD; điện tử, máy tính 2,7 tỷ USD; cà phê 2 tỷ
USD, tăng 2 mặt hàng so với năm 2007 là gạo và cà phê. Tuy kim ngạch hàng hoá xuất
khẩu năm 2008 tăng khá cao so với năm 2007 nhưng nếu loại trừ trị giá tái xuất sắt,
thép, vàng và yếu tố tăng giá của 8 mặt hàng chủ yếu (dầu thô, than đá, gạo, cà phê, cao
su, hạt tiêu, hạt điều, chè) thì kim ngạch hàng hoá xuất khẩu chỉ tăng 13,5%.
Trong các thị trường xuất khẩu của Việt Nam năm 2008, Hoa Kỳ là đối tác lớn nhất,
ước tính đạt 11,6 tỷ USD, tăng 14,5% so với năm 2007 với 5 mặt hàng chủ yếu (chiếm
tỷ trọng 76% tổng kim ngạch hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường này)
gồm: Hàng dệt may, dầu thô, gỗ và sản phẩm gỗ, giày dép, thủy sản. Kim ngạch hàng
hoá xuất khẩu sang thị trường ASEAN tuy có giảm trong các tháng cuối năm, nhưng
ước tính cả năm vẫn đạt 10,2 tỷ USD, tăng 31% so với năm 2007 với các mặt hàng
chính là: Dầu thô, gạo, thủy sản, máy tính, sản phẩm điện tử và linh kiện. Thị trường
EU ước tính đạt 10 tỷ USD, tăng 15% so với năm trước gồm các mặt hàng truyền thống
như: Hàng dệt may, giày dép, nông sản, thủy sản. Thị trường Nhật Bản ước tính đạt 8,8
tỷ USD, tăng 45% so với năm 2007, tập trung chủ yếu vào các mặt hàng: Dầu thô, giày
dép, thủy sản, máy tính và linh kiện, dây và cáp điện.
Kim ngạch hàng hoá nhập khẩu tháng 12/2008 ước tính đạt 5,4 tỷ USD, tăng 16,1% so
với tháng trước do một số mặt hàng nhập khẩu tháng này tăng mạnh là: Máy móc thiết
bị tăng 272 triệu USD; xăng dầu tăng 78 triệu USD; thức ăn gia súc tăng 53 triệu USD;
sắt, thép tăng 182 triệu USD. So với tháng 12/2007, kim ngạch nhập khẩu tháng 12 năm
nay giảm 25%. Tính chung cả năm 2008, kim ngạch hàng hoá nhập khẩu ước tính 80,4
tỷ USD, tăng 28,3% so với năm 2007, bao gồm khu vực kinh tế trong nước đạt 51,8 tỷ
USD, tăng 26,5%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 28,6 tỷ USD, tăng 31,7%.
Trong tổng kim ngạch hàng hoá nhập khẩu năm 2008, tư liệu sản xuất chiếm 88,8%;
hàng tiêu dùng chiếm 7,8%; vàng chiếm 3,4% (năm 2007 tỷ trọng của 03 nhóm hàng
này tương ứng là: 90,4%; 7,5%; 2,1%). Nếu loại trừ yếu tố tăng giá của một số mặt
hàng thì kim ngạch nhập khẩu năm nay chỉ tăng 21,4% so với năm 2007.
Nhìn chung, các mặt hàng nhập khẩu chủ lực nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển sản xuất
trong nước đều tăng so với năm 2007. Tuy nhiên, nhập khẩu nguyên liệu cho sản xuất
những tháng cuối năm có xu hướng giảm nhiều, đây là một trong những dấu hiệu của sự
chững lại trong đầu tư và sản xuất. Trong khi đó, kim ngạch nhập khẩu hàng tiêu dùng
đang có xu hướng tăng vào các tháng cuối năm cho thấy hàng tiêu dùng nước ngoài
đang tạo sức ép lớn lên hàng tiêu dùng của Việt Nam ngay tại thị trường trong nước.
Nhập khẩu ô tô năm 2008 đạt mức cao kỷ lục với 2,4 tỷ USD, trong đó ô tô nguyên
chiếc đạt 1 tỷ USD với 50,4 nghìn chiếc (ô tô dưới 12 chỗ ngồi 27,5 nghìn chiếc, tương
đương 380 triệu USD). Nhập khẩu máy móc thiết bị, phụ tùng khác (trừ ô tô và máy
tính, điện tử) ước tính đạt 13,7 tỷ USD, tăng 23,3% so với năm 2007. Nhập khẩu xăng
dầu đạt 12,9 triệu tấn, tăng 0,1% so với năm trước, tương ứng với kim ngạch 10,9 tỷ
USD, tăng 41,2%. Sắt thép đạt 6,6 tỷ USD, tăng 28,5%. Vải và nguyên phụ liệu dệt
may là những mặt hàng phục vụ chủ yếu cho sản xuất hàng xuất khẩu vẫn đạt kim
ngạch cao với 6,8 tỷ USD, tăng 11,5% so với năm 2007. Hàng điện tử máy tính và linh
kiện đạt 3,7 tỷ USD, tăng 25,8% so với năm trước, đây là nhóm hàng không chỉ gắn với
tiêu dùng trong nước mà còn liên quan tới gia công, lắp ráp để xuất khẩu.
Trong các thị trường nhập khẩu của Việt Nam năm 2008, kim ngạch hàng hoá nhập
khẩu từ khu vực ASEAN, ước tính 19,5 tỷ USD, tăng 22,5% so với năm 2007; Trung
Quốc 15,4 tỷ USD, tăng 23,2%; thị trường EU 5,2 tỷ USD, tăng 1,7%; Đài Loan 8,4 tỷ
USD, tăng 21,8 %; Nhật Bản 8,3 tỷ USD, tăng 37,7%.
Nhập siêu năm 2008 ước tính 17,5 tỷ USD, tăng 24,1 % so với năm 2007, bằng 27,8%
tổng kim ngạch xuất khẩu. Tuy nhập siêu đã giảm nhiều so với dự báo những tháng
trước đây nhưng mức nhập siêu năm nay vẫn khá cao, trong đó châu Á có mức nhập
siêu lớn nhất, đứng đầu là thị trường Trung Quốc với 10,8 tỷ USD, cao hơn 1,7 tỷ USD
so với năm 2007.
Cùng với xuất, nhập khẩu hàng hoá, năm 2008 còn đẩy mạnh xuất, nhập khẩu dịch vụ.
Tổng trị giá xuất khẩu dịch vụ năm 2008 ước tính đạt 7,1 tỷ USD, tăng 9,8% so với
năm 2007, trong đó dịch vụ du lịch đạt 4 tỷ USD, tăng 7,2%; dịch vụ vận tải hàng
không đạt 1,3 tỷ USD, tăng 23,7%; dịch vụ vận tải biển đạt 1 tỷ USD, tăng 27,7%.
Tổng trị giá nhập khẩu dịch vụ năm 2008 ước tính đạt 7,9 tỷ USD, tăng 10,3% so với
năm 2007, trong đó dịch vụ du lịch 1,3 tỷ USD, tăng 6,6%; dịch vụ vận tải hàng không
800 triệu USD, giảm 2,4%; dịch vụ hàng hải 300 triệu USD, tăng 20%.
Dịch vụ
Vận tải
Vận tải hành khách năm 2008 ước tính đạt 1932,3 triệu lượt hành khách và 81,7 tỷ lượt
hành khách.km, tăng 8,1% về khối lượng vận chuyển và tăng 7,6% về khối lượng luân
chuyển so với năm 2007, bao gồm vận tải của trung ương đạt 37,6 triệu lượt hành
khách, tăng 16,4% và 22,7 tỷ lượt hành khách.km, tăng 11%; vận tải của địa phương đạt
1894,7 triệu lượt hành khách, tăng 7,9% và 58,9 tỷ lượt hành khách.km, tăng 6,4%.
Trong các ngành vận tải, vận tải đường bộ năm 2008 ước tính đạt 1744,3 triệu lượt hành
khách, tăng 8,8% và 57,4 tỷ lượt hành khách.km, tăng 8,2% so với năm trước; đường
sắt đạt 11,3 triệu lượt hành khách, giảm 2,1% và 4,6 tỷ lượt hành khách.km, giảm 0,4%;
hàng không đạt 10,2 triệu lượt hành khách, tăng 10,5% và 16,1 tỷ lượt hành khách.km,
tăng 9,4%.
hối lượng hàng hoá vận chuyển năm 2008 ước tính đạt 604 triệu tấn, tăng 8,9% so với
năm trước và khối lượng hàng hoá luân chuyển ước tính đạt 174,3 tỷ tấn.km, tăng
40,5%, bao gồm vận chuyển trong nước đạt 571,8 triệu tấn, tăng 8,4% và 65 tỷ tấn.km,
tăng 11,4%; vận chuyển ngoài nước đạt 32,2 triệu tấn, tăng 17,8 % và 109,3 tỷ tấn.km,
tăng 66,4%. Khối lượng hàng hoá vận chuyển bằng đường bộ vẫn là chủ yếu, ước tính
năm 2008 đạt 434,8 triệu tấn, tăng 9,9% và 22,5 tỷ tấn.km, tăng 13,7% so với năm
2007; vận chuyển đường sông đạt 109,6 triệu tấn, tăng 1,4% và 5,6 tỷ tấn.km, tăng 1%;
vận chuyển đường biển đạt 51 triệu tấn, tăng 21,8% và khối lượng luân chuyển đạt mức
cao với 141,8 tỷ tấn.km, tăng 49,9% do trong năm tăng năng lực vận chuyển tàu viễn
dương,
Bưu chính, viễn thông
Thị trường viễn thông trong nước ngày càng phát triển do sự tăng mạnh của thị trường
thông tin di động với hàng loạt chính sách khuyến mãi, giảm giá nhằm thu hút khách
hàng. Số thuê bao điện thoại phát triển mới năm 2008 ước tính đạt 27,6 triệu thuê bao,
nâng tổng số thuê bao điện thoại của cả nước tính đến hết tháng 12 năm 2008 lên 79,4
triệu thuê bao (điện thoại cố định 13,1 triệu thuê bao), tăng 53,1% so với số thuê bao có
đến cuối năm 2007. Tập đoàn Bưu chính Viễn thông chiếm thị phần lớn nhất, ước tính
đến cuối năm 2008 đạt 47,4 triệu thuê bao, tăng 70,9% so với thời điểm cuối năm trước,
trong đó điện thoại di động đạt 37,1 triệu thuê bao, chiếm trên 70% thị phần và tăng
100,5%; điện thoại cố định đạt 10,3 triệu thuê bao, chiếm thị phần tuyệt đối và tăng
11,5%. Một số nhà cung cấp dịch vụ thông tin di động chiếm thị phần lớn trên thị
trường hiện nay là: Vinaphone, Mobiphone và Viettel, trong đó hiệu suất sử dụng kho
số của Viettel khoảng 76%; Vinaphone 74% và Mobiphone 70%.
Thị trường Internet vẫn tiếp tục phát triển, số thuê bao Internet mới trong năm 2008 ước
tính đạt 1,5 triệu thuê bao, tăng 27,8% so với năm 2007, nâng tổng số thuê bao Internet
có đến cuối tháng 12 năm 2008 lên 6,7 triệu thuê bao, tăng 28,4% so với tổng số thuê
bao có tại thời điểm cuối năm trước. Số người sử dụng Internet tính đến cuối năm 2008
ước tính 20,8 triệu người, tăng 12% so với thời điểm cuối năm 2007.
Do số thuê bao điện thoại và Internet phát triển mạnh nên kết quả kinh doanh của ngành
bưu chính, viễn thông tiếp tục tăng cao. Tổng doanh thu thuần bưu chính, viễn thông
năm 2008 ước tính 69,2 nghìn tỷ đồng, tăng 23,8% so với năm 2007. Doanh thu của
Tập đoàn Bưu chính, Viễn thông chiếm tỷ trọng lớn nhất với 72%, đạt 49,8 nghìn tỷ
đồng, tăng 17,7% so với năm 2007, trong đó doanh thu viễn thông đạt 45,8 nghìn tỷ
đồng, tăng 16,2%; doanh thu bưu chính đạt 2,1 nghìn tỷ đồng, tăng 24%.
Du lịch
Số khách quốc tế đến nước ta năm 2008 ước tính đạt 4,3 triệu lượt người, tăng 0,6% so
với năm trước, trong đó khách đến với mục đích du lịch, nghỉ dưỡng đạt 2,6 triệu lượt
người, tăng 1%; đến vì công việc 844,8 nghìn lượt người, tăng 25,4%; thăm thân nhân
đạt 509,6 nghìn lượt người, giảm 15,2%; khách đến với mục đích khác đạt 267,4 nghìn
lượt người, giảm 23,3%. Số khách quốc tế đến nước ta bằng đường hàng không đạt 3,3
triệu lượt người, giảm 0,5% so với năm 2007; đường bộ 813,3 nghìn lượt người, tăng
15,6%; đường biển 157,2 nghìn lượt người giảm 30,1%.
Trong tổng số khách quốc tế đến nước ta năm 2008, khách đến từ Trung Quốc đạt 650,1
nghìn lượt người, tăng 13,1% so với năm 2007; Hoa Kỳ 417,2 nghìn lượt người, tăng
2,2%; khách đến từ Thái Lan 183,1 nghìn lượt người, tăng 9,6%; khách đến từ Xin-ga-
po 158,4 nghìn lượt người, tăng 14,6%; một số nước có lượng khách đến nước ta giảm
là: Hàn Quốc 449,2 nghìn lượt người, giảm 5,5%; Nhật Bản 393 nghìn lượt người, giảm
6,1%; Đài Loan 303,5 nghìn lượt người, giảm 4,9%.
MỘT SỐ VẤN ĐỀ XÃ HỘI
Dân số, lao động, việc làm
Dân số trung bình năm 2008 ước tính 86,16 triệu người, bao gồm nam 42,35 triệu
người, chiếm 49,1% tổng dân số; nữ 43,81 triệu người, chiếm 50,9%. Trong tổng dân số
cả nước, dân số khu vực thành thị là 24 triệu người, tăng 2,85% so với năm trước,
chiếm 27,9% tổng dân số; dân số khu vực nông thôn là 62,1 triệu người, tăng 0,55% và
chiếm 72,1%. Tổng số lao động đang làm việc trong các ngành kinh tế năm 2008 ước
tính 45 triệu người, tăng 2% so với năm 2007, trong đó lao động khu vực nhà nước 4,1
triệu người, tăng 2,5%, lao động ngoài nhà nước 39,1 triệu người, tăng 1,2%, lao động
khu vực đầu tư nước ngoài 1,8 triệu người, tăng 18,9%. Tỷ lệ thất nghiệp của lao động
trong độ tuổi khu vực thành thị ước tính 4,65%.
Đời sống dân cư
Giá cả hàng hoá, dịch vụ tiêu dùng tăng cao, ảnh hưởng nhiều đến đời sống của đại bộ
phận dân cư, đặc biệt là những người có thu nhập thấp. Bên cạnh đó, việc chi trả tiền
lương và một số chế độ chính sách khác cho người lao động theo quy định mới ở một số
địa phương còn chậm; tình trạng vi phạm pháp luật lao động, nợ đọng bảo hiểm xã hội,
bảo hiểm y tế vẫn xảy ra ở một vài nơi. Mặc dù chế độ tiền lương đã có cải tiến, mức
lương tối thiểu tăng từ 450 nghìn đồng/tháng lên 540 nghìn đồng/tháng vào thời điểm
đầu năm 2008 và lương của đối tượng hưu trí cũng được trợ cấp thêm 15% theo Nghị
định số 101/2008/NĐ-CP ngày 12/9/2008 của Chính phủ, nhưng nhìn chung đời sống
của cán bộ, công nhân, viên chức cũng chưa được cải thiện đáng kể. Tính chung năm
2008, thu nhập bình quân một tháng của lao động khu vực Nhà nước đạt 2,7 triệu đồng,
tăng 28,6% so với năm trước, trong đó thu nhập của lao động khu vực Nhà nước do
trung ương quản lý đạt 3,4 triệu đồng, tăng 36%; thu nhập của lao động khu vực Nhà
nước địa phương quản lý đạt 2,2 triệu đồng, tăng 22,2%.
Ở khu vực nông thôn, thiên tai, dịch bệnh trên gia súc, gia cầm xảy ra liên tiếp; giá cả
hàng hoá tiêu dùng, xăng dầu và vật tư nông nghiệp tăng cao đã tác động không nhỏ
đến sản xuất và đời sống của nông dân. Theo báo cáo của các địa phương, năm 2008 cả
nước có 957,5 nghìn lượt hộ thiếu đói và 4 triệu lượt nhân khẩu thiếu đói. So với năm
2007, số lượt hộ thiếu đói tăng 32,3%, số lượt nhân khẩu thiếu đói tăng 32,7%. Tình
trạng thiếu đói tập trung nhiều ở các tỉnh vùng Trung du và miền núi phía Bắc, Bắc
Trung Bộ và Duyên hải miền Trung, Tây Nguyên.
Để đảm bảo an sinh xã hội, ngân sách Nhà nước đã chi 42,3 nghìn tỷ đồng, gồm các
khoản chính sau: Chi trợ giá dầu hoả cho đồng bào dân tộc thiểu số vùng chưa có điện
thắp sáng; trợ giá dầu cho ngư dân đánh bắt xa bờ; chi bảo trợ xã hội; mua thẻ bảo hiểm
y tế cho người nghèo, cận nghèo; cấp học bổng cho học sinh dân tộc nội trú, bán trú;
điều chỉnh tăng 15% mức lương hưu, trợ cấp đối với người về hưu, người hưởng trợ cấp
bảo hiểm xã hội, người có công với cách mạng; hỗ trợ đồng bào bị thiên tai lũ lụt; thực
hiện miễn giảm các khoản đóng góp của người dân; miễn thủy lợi phí, không thu phí dự
thi, dự tuyển vào các trường trung học cơ sở, trung học phổ thông; miễn lệ phí trước bạ
đối với nhà ở, đất ở của các hộ nghèo; thực hiện chính sách tín dụng ưu đãi đối với
đồng bào thiểu số đặc biệt khó khăn, học sinh, sinh viên có hoàn cảnh khó khăn. Nhờ có
các chính sách an sinh xã hội như trên và đặc biệt sản xuất nông nghiệp năm nay tuy bị
ảnh hưởng của biến động giá cả dẫn đến chi phí tăng cao nhưng do chỉ đạo kịp thời của
các cấp, các ngành khắc phục hậu quả, nhanh chóng ổn định sản xuất nên kết quả đạt
khá, đời sống nông dân vì thế cũng đỡ khó khăn hơn những tháng đầu năm. Do vậy, tỷ
lệ hộ nghèo chung của cả nước năm 2008 ước tính 13,5%, thấp hơn với mức 14,8% của
năm 2007.
Tai nạn giao thông
Theo báo cáo của Uỷ ban An toàn giao thông quốc gia, trong 11 tháng năm 2008, trên
địa bàn cả nước đã xảy ra 11,5 nghìn vụ tai nạn giao thông, làm chết 10,4 nghìn người
và làm bị thương 7,4 nghìn người. So với 11 tháng của năm 2007, số vụ tai nạn giao
thông giảm 13,3%; số người chết giảm 12,7%; số người bị thương giảm 24,8%. Tình
hình tai nạn giao thông giảm là kết quả của việc kiên trì và quyết tâm thực hiện việc
triển khai đội mũ bảo hiểm đối với người đi xe máy và triển khai thực hiện các biện
pháp an toàn giao thông khác. Tuy nhiên, tai nạn giao thông vẫn còn lớn, bình quân một
ngày trong 11 tháng của năm 2008, trên địa bàn cả nước xảy ra 34 vụ tai nạn giao
thông, làm chết 31 người và làm bị thương 22 người. Tai nạn giao thông đường bộ bình
quân trên 10 nghìn phương tiện cơ giới đường bộ trong 11 tháng của năm 2008 là 4 vụ,
làm chết 4 người và làm bị thương 3 người, so với 11 tháng năm 2007, bình quân giảm
1,6 vụ, số người chết giảm 1 người, số người bị thương giảm 2 người.
Thiệt hại thiên tai
Năm 2008, thiên tai xảy ra liên tiếp và nghiêm trọng hơn nhiều so với năm trước, ảnh
hưởng lớn đến sản xuất và đời sống dân cư của hầu hết địa phương trên địa bàn cả
nước. Theo báo cáo của các địa phương, thiên tai đã làm 550 người chết và mất tích,
440 người bị thương; gần 350 nghìn ha mạ, lúa và hoa màu bị mất trắng; 1,2 nghìn tấn
thóc giống hỏng; hơn 1 triệu con gia súc và gia cầm bị chết; 68 nghìn ha diện tích nuôi
trồng thủy sản bị thiệt hại. Ngoài ra, mưa lũ còn làm sạt lở hơn 1 nghìn km đường giao
thông cơ giới; gần 5 nghìn ngôi nhà bị sập hoặc bị cuốn trôi. Tổng giá trị thiệt hại do
thiên tai gây ra năm 2008 ước tính gần 12 nghìn tỷ đồng. Tại các tỉnh bị thiệt hại do
thiên tai gây ra, lãnh đạo địa phương đã kịp thời triển khai các công tác cứu hộ và cứu
trợ nhằm khắc phục hậu quả, nhanh chóng ổn định đời sống và sản xuất cho dân. Các
hộ dân bị ảnh hưởng của thiên tai cũng đã nhận được sự hỗ trợ về lương thực, thực
phẩm, nước uống và các nhu yếu phẩm từ các tổ chức và cá nhân trên cả nước.
5. Cung cấp nước sạch
Theo báo cáo của Bộ Xây dựng, năm 2008, tỷ lệ dân số đô thị được cung cấp nước sạch
ước tính đạt 75% (gồm cả đô thị loại V), trong đó một số đô thị lớn đạt tỷ lệ cao là: Huế
90%; thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng và Hà Nội đạt 85%; Hải Phòng 86%; Cần Thơ
80%.
Theo báo cáo kết quả tình hình thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia về nước sạch
và vệ sinh môi trường nông thôn, tỷ lệ người dân dùng nước hợp vệ sinh khu vực nông
thôn đạt 75%, trong đó 35% người dân được dùng nước đạt tiêu chuẩn 09(Quyết định
số 09/2005/QĐ-BYT ngày 11/3/2005 của Bộ Y tế về việc ban hành Tiêu chuẩn vệ sinh
nước sạch) của Bộ Y tế, cao hơn 6% so với năm 2007.
Để tăng cường nước sạch cho các hộ dân, nhiều địa phương đã tập trung đầu tư, nâng
cấp, sửa chữa và xây dựng 136,6 nghìn công trình cấp nước, trong đó xây dựng 1,9
nghìn công trình cấp nước tập trung và 133,8 nghìn công trình cấp nước phân tán; vận
động nhân dân xây dựng 364 nghìn nhà tiêu hợp vệ sinh, nâng tỷ lệ hộ dân có nhà tiêu
hợp vệ sinh lên 65%, tăng 14% so với năm 2007; xây dựng 3,7 nghìn công trình cấp
nước và vệ sinh công cộng cho 600 nhà trẻ, mẫu giáo, 2,3 nghìn trường học, 610 trạm y
tế, 200 UBND xã. Nguồn vốn sử dụng cho Chương trình mục tiêu quốc gia về nước
sạch và vệ sinh môi trường nông thôn năm 2008 đạt 3975 tỷ đồng, tăng 83% so với năm
2007, trong đó vốn từ ngân sách nhà nước chiếm 16,9%; dân đóng góp 17,3%; hỗ trợ
của quốc tế 16,7%; vốn tín dụng ưu đãi 35,2%.
Bảo vệ môi trường sinh thái
Theo Cục Kiểm lâm, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, tỷ lệ che phủ rừng năm
2008 ước tính khoảng 38,8-39,3%, tăng 0,5% so với năm 2007. Theo Quyết định số
64/2003/QĐ-TTg ngày 22/4/2003 của Thủ tướng Chính phủ về Kế hoạch xử lý triệt để
các cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng (cả nước hiện nay có 4,3 nghìn cơ sở
sản xuất, kinh doanh gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng cần phải xử lý). Quá trình
xử lý các cơ sở này được chia làm 2 giai đoạn: Giai đoạn 1 (từ 2003- 2007) xử lý 0,4
nghìn cơ sở; giai đoạn 2 (từ 2008 đến 2012) tiếp tục xử lý 3,9 nghìn cơ sở còn lại và các
cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng được phát hiện thêm.
Chất thải rắn đang là mối đe dọa nghiêm trọng đối với môi trường sinh thái. Theo đánh
giá của Bộ Xây dựng, tổng lượng chất thải rắn sinh hoạt trên địa bàn cả nước ước tính
khoảng 12,8 triệu tấn/năm, trong đó của khu vực đô thị (từ loại 4 trở lên) là 6,9 triệu
tấn/năm (khoảng 19 nghìn tấn/ngày). Trong tổng số chất thải rắn của đô thị, lượng chất
thải rắn sinh hoạt chiếm 80% (khoảng 5,5 triệu tấn/năm); chất thải rắn công nghiệp
chiếm 17% (khoảng 1,2 triệu tấn/năm); còn lại là chất thải rắn y tế khoảng 3% (0,2 triệu
tấn/năm).
Công tác thu gom và xử lý chất thải rắn đang được quan tâm và tích cực triển khai.
Lượng chất thải rắn có khả năng tái chế và tái sử dụng chiếm khoảng 20-30% lượng
chất thải rắn được thu gom. Tuy nhiên, công nghệ xử lý và số lượng cơ sở xử lý chất
thải rắn còn nhiều bất cập, chưa đáp ứng được nhu cầu thực tế phát sinh. Cả nước có
khoảng 9% các đô thị từ thị xã trở lên có nhà máy chế biến phân hữu cơ, lượng chất thải
rắn được xử lý tại các nhà máy này đạt khoảng 6%; các lò đốt chất thải y tế nguy hại
cũng chỉ đáp ứng được khoảng 40% tổng lượng chất thải y tế.
Giáo dục và đào tạo
Giáo dục
Kết thúc năm học 2007-2008, cả nước có 1356,1 nghìn học sinh hoàn thành cấp tiểu
học; 1381,3 nghìn học sinh được cấp bằng tốt nghiệp trung học cơ sở; 886,7 nghìn học
sinh tốt nghiệp trung học phổ thông, tỷ lệ tốt nghiệp 86,6% và 103,6 nghìn học sinh tốt
nghiệp bổ túc trung học phổ thông, tỷ lệ tốt nghiệp 67,4%.
Công tác phổ cập giáo dục tiểu học và trung học cơ sở tiếp tục được triển khai trên
phạm vi cả nước. Tuy nhiên, tiến độ thực hiện công tác này ở các tỉnh miền núi, vùng
đồng bào dân tộc ít người, vùng sâu, vùng xa.v.v. còn chậm; kết quả đạt được chưa cao.
Tính đến tháng 12/2008 cả nước có 41/63 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương đạt
chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi và 47/63 tỉnh, thành phố trực thuộc trung
ương đạt chuẩn phổ cập giáo dục trung học cơ sở.
Tình hình học sinh bỏ học là vấn đề đang được các cấp, các ngành đặc biệt quan tâm.
Năm học 2007-2008, cả nước có 215,1 nghìn học sinh bỏ học, chiếm gần 1,4% tổng số
học sinh, bao gồm 32 nghìn học sinh tiểu học, chiếm 0,5% tổng số học sinh tiểu học;
105,2 nghìn học sinh trung học cơ sở, chiếm 1,8% số học sinh trung học cơ sở; 77,9
nghìn học sinh trung học phổ thông, chiếm 2,6% số học sinh trung học phổ thông.
Nguyên nhân của tình trạng bỏ học chủ yếu do học sinh có học lực yếu kém hoặc hoàn
cảnh kinh tế gia đình gặp nhiều khó khăn, không có điều kiện theo học tiếp.
Theo báo cáo từ các địa phương, tại thời điểm khai giảng năm học 2008-2009 cả nước
có gần 490 nghìn trẻ em được gửi nhà trẻ, giảm 3,7% so với năm học trước; hơn 2782
nghìn trẻ em học mẫu giáo, tăng 3,6%; gần 6750 nghìn học sinh tiểu học, giảm 0,3%;
5530 nghìn học sinh trung học cơ sở, giảm 3,1% và 2992,9 nghìn học sinh trung học
phổ thông, tăng 0,7%. Tổng số giáo viên năm học 2008-2009 là 799,4 nghìn giáo viên
phổ thông, bao gồm 346,5 nghìn giáo viên tiểu học; 313,8 nghìn giáo viên trung học cơ
sở và 139,1 nghìn giáo viên trung học phổ thông. So với định mức biên chế giáo viên
của Bộ Giáo dục và Đào tạo cho năm học này thì số giáo viên tiểu học thừa 28,3 nghìn
người; trung học cơ sở thừa 21,4 nghìn người và trung học phổ thông thiếu khoảng 12,6
nghìn người. Tình trạng thừa, thiếu giáo viên ở các cấp học và ở các vùng, miền tuy đã
kéo dài nhiều năm nhưng đến nay chưa được khắc phục.
Đào tạo
Trong kỳ thi đại học, cao đẳng năm 2008, cả nước có 181 trường đại học, học viện và
130 trường cao đẳng tổ chức tuyển sinh. Tổng số thí sinh dự thi là 1,7 triệu lượt người,
tăng 21,3% so với kỳ thi năm trước, bao gồm 1,3 triệu lượt người dự thi vào hệ đại học,
tăng 17% và 0,4 triệu lượt người dự thi vào hệ cao đẳng, tăng 30,8%. Trong năm học
2007-2008, số trường đại học trên toàn quốc tăng 15,1% so với năm học 2006-2007; số
trường cao đẳng tăng 14,2%; số sinh viên đại học và cao đẳng tăng 4,1%; số học sinh
trung cấp chuyên nghiệp tăng 19%. Công tác đào tạo nghề cũng đạt kết quả khá. Năm
2008, cả nước đã tuyển mới được 1538 nghìn học sinh vào các hệ học nghề, tăng 17%
so với năm 2007, trong đó cao đẳng nghề 60 nghìn học sinh, tăng 103%; trung cấp nghề
198 nghìn học sinh, tăng 31%. Chương trình mục tiêu quốc gia giáo dục đào tạo đã
dành kinh phí 1 nghìn tỷ đồng cho Dự án tăng cường năng lực đào tạo nghề, trong đó
723,5 tỷ đồng tập trung đầu tư cho các cơ sở dạy nghề; hỗ trợ 157 tỷ đồng dạy nghề cho
các đối tượng gồm lao động nông thôn, thanh niên dân tộc thiểu số và người tàn tật.
Thực hiện Quyết định số 157/2007/QĐ-TTg ngày 27/9/2007 của Thủ tướng Chính phủ
về tín dụng đối với học sinh, sinh viên, tính đến 30/6/2008, cả nước đã có 754 nghìn
học sinh, sinh viên được vay vốn từ Ngân hàng Chính sách xã hội với số dư nợ cho vay
là 5,3 nghìn tỷ đồng, trong đó hỗ trợ cho 499 nghìn sinh viên đại học, cao đẳng 3,6
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét