Thứ Bảy, 19 tháng 4, 2014

giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của ngân hàng thương mại cổ phần các doanh nghiệp ngoài quốc doanh việt nam


LINK DOWNLOAD MIỄN PHÍ TÀI LIỆU "giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của ngân hàng thương mại cổ phần các doanh nghiệp ngoài quốc doanh việt nam": http://123doc.vn/document/1053142-giai-phap-nang-cao-nang-luc-canh-tranh-cua-ngan-hang-thuong-mai-co-phan-cac-doanh-nghiep-ngoai-quoc-doanh-viet-nam.htm


Luận văn tốt nghiệp Phạm Ngọc Lan – NH44A
NHTMCP Ngân hàng thương mại cổ phần
NHTMQD Ngân hàng thương mại quốc doanh
NHNN Ngân hàng Nhà nước
VĐL Vốn điều lệ
5
Luận văn tốt nghiệp Phạm Ngọc Lan – NH44A
CHƯƠNG I: NĂNG LỰC CẠNH TRANH
CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Các hoạt động chủ yếu của Ngân hàng thương mại
1.1.1. Khái niệm ngân hàng thương mại
Ngân hàng là một trong những tổ chức tài chính quan trọng nhất của
nền kinh tế, có mối liên hệ mật thiết với tất cả các ngành, các lĩnh vực khác
của nền kinh tế. Ngân hàng tài trợ cho Chính phủ để đầu tư phát triển và
thực hiện các chính sách kinh tế mà chủ yếu là chính sách tiền tệ nhằm điều
tiết nền kinh tế phát triển một cách ổn định. Như vậy có thể thấy rằng hoạt
động của ngân hàng có ảnh hưởng đáng kể tới sự phát triển của toàn bộ nền
kinh tế.
Có nhiều cách để định nghĩa về ngân hàng thương mại, có thể định
nghĩa về ngân hàng thương mại trên phương diện những loại hình dịch vụ
cung cấp: “Ngân hàng thương mại là các tổ chức tài chính cung cấp một
danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất- đặc biệt là tín dụng, tiết
kiệm và dịch vụ thanh toán và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất
so với bất kì một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế”
1
.
(1)
Theo Luật Các tổ chức tín dụng của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam có định nghĩa: “Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh
tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là nh tiền gửi và
sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh
toán”.
1.1.2. Các hoạt động chủ yếu của ngân hàng thương mại
Ngân hàng thương mại là một loại hình doanh nghiệp đặc biệt với
nhiều hoạt động đa dạng, có thể tổng hợp những hoạt động đó theo 3 nhóm
hoạt động cơ bản, đó là: hoạt động huy động vốn, hoạt động sử dụng vốn
1
() Giáo trình Ngân hàng thương mại, TS. Phan Thị Thu Hà, TS. Nguyễn Thị Thu Thảo,
tr11, Nxb Thống kê, Hà Nội, 2004
6
Luận văn tốt nghiệp Phạm Ngọc Lan – NH44A
và các hoạt động trung gian khác.
1.1.2.1. Hoạt dộng huy động vốn
Nguồn vốn tiền gửi không kì hạn: đây là nguồn vốn hình thành dựa
trên nhu cầu giao dịch, khi khách hàng muốn sử dụng các dịch vụ tài chính
của ngân hàng. Nguồn vốn này có quy mô rất lớn, luôn chiếm tỉ trọng lớn
nhất trong số nguồn vốn, sự vận động lại phức tạp nên việc sử dụng rất
mạo hiểm, cần phải thận trọng mới có phương pháp sử dụng hiệu quả.
Tiền gửi có kì hạn của doanh nghiệp, các tổ chức xã hội: nhiều khoản
thu bằng tiền của doanh nghiệp và các tổ chức xã hội sẽ được chi trả sau
một thời gian xác định sẽ được gửi vào ngân hàng sau một thời gian nhất
định để hưởng lãi suất tương ứng với kì hạn đó (luôn cao hơn đối với lãi
suất tiền gửi thanh toán).
Tiền gửi tiết kiệm của dân cư: đây là các khoản tiền tạm thời nhàn rỗi
trong dân cư được gửi vào ngân hàng nhằm mục đích sinh lời và an toàn.
Nguồn vốn chủ sở hữu: để bắt đầu hoạt động ngân hàng, chủ ngân
hàng phải có một lượng vốn nhất định và còn được bổ sung trong quá trình
hoạt động. Đây là loại vốn ngân hàng có thể sử dụng lâu dài, hình thành
nên trang thiết bị, nhà cửa cho ngân hàng.
Các nguồn vốn khác: đây thường là các nguồn không phải trả lãi, tuy
nhiên chi phi để có và duy trì chúng là rất đáng kể, ví dụ như nguồn uỷ
thác
1.1.2.2. Sử dụng vốn
* Các hoạt động về ngân quỹ:
Dự trữ bắt buộc: đây là khoản dự trữ mà ngân hàng Nhà nước yêu
cầu các ngân hàng thương mại nộp vào tài khoản tại ngân hàng Nhà nước
nhằm mục đích: hỗ trợ, bảo đảm an toàn cho hoạt động của ngân hàng
thương mại, vận hành chính sách tiền tệ quốc gia, quản lý hoạt động ngân
hàng thương mại.
7
Luận văn tốt nghiệp Phạm Ngọc Lan – NH44A
Dự trữ vượt quá: là các khoản dự trữ tồn tại dưới dạng tiền mặt tại
quỹ, các khoản tiền gửi tại ngân hàng khác, tiền mặt trong quá trình thu.
Nhìn chung, ngân quỹ của ngân hàng thương mại là tài sản không
sinh lời (hoặc sinh lời thấp trong trường hợp tiền gửi tại ngân hàng Nhà
nước và các ngân hàng khác được hưởng lãi) song lại là tài khoản có tính
thanh khoản cao nhất, đáp ứng nhu cầu chi trả thường xuyên. Do vậy, mỗi
ngân hàng đều cố gắng giữ ngân quỹ ở mức thấp nhất có thể được.
* Cho vay: là việc ngân hàng nhường quyền sử dụng vốn cho người
khác trong một thời gian, sau đó được quyền thu cả gốc lẫn lãi. Cho vay là
khoản mục có tỷ lệ cao nhất trong các loại tài sản của ngân hàng. Có rất
nhiều loại hình cho vay khác nhau đáp ứng nhu cầu của dân cư hay các
doanh nghiệp.
* Các hoạt động đầu tư: Ngân hàng nhường quyền sở hữu cho người
khác dưới hình thức hùn vốn, thu nhập căn cứ vào tỷ suất lợi nhuận, tỷ lệ
vốn góp. Có nhiều hình thức đầu tư: đầu tư vào chứng khoán, đầu tư vào
các dự án, đầu tư dưới dạng liên doanh với nhau để hình thành các ngân
hàng liên doanh.
* Các hoạt động sử dụng vốn khác: quảng cáo, quảng bá, tài trợ cho
sự phát triển nguồn nhân lực, các chương trình phát triển.
1.1.2.3. Các hoạt động trung gian
* Chuyển tiền: Ngân hàng làm theo lệnh của khách hàng chuyển trả
tiền cho một người nào đó.
* Thanh toán không dùng tiền mặt: Khi khách hàng gửi tiền vào ngân
hàng, ngân hàng không chỉ bảo quản mà còn thực hiện các lệnh chi trả cho
khách hàng. Người gửi tiền không cần phải đến ngân hàng để lấy tiền mà
chỉ cần viết giấy chi trả cho khách, khách hàng mang giấy đến ngân hàng
sẽ nhận được tiền. Các hình thức thanh toán ngày càng đa dạng: thanh toán
bù trừ, sec, L/C, uỷ nhiệm chi, uỷ nhiệm thu, hối phiếu, thanh toán bằng
thẻ
8
Luận văn tốt nghiệp Phạm Ngọc Lan – NH44A
* Cung cấp các dịch vụ tài chính:
Dịch vụ ủy thác và tư vấn: Do hoạt động trong lĩnh vực tài chính, các
ngân hàng có rất nhiều chuyên gia về quản lý tài chính. Vì vậy, nhiều cá
nhân và doanh nghiệp nhờ ngân hàng quản lý tài sản và quản lý tài chính
hộ. Nhiều khách hàng còn coi ngân hàng như một chuyên gia tư vấn tài
chính.
Dịch vụ môi giới đầu tư chứng khoán: Ngân hàng cung cấp cho
khách hàng cơ hội mua cổ phiếu, trái phiếu và các chứng khoán khác.
Trong một vài trường hợp, các ngân hàng tổ chức ra công ty chứng khoán
hoặc công ty môi giới chứng khoán để cung cấp dịch vụ môi giới.
Bảo lãnh: Do khả năng thanh toán của ngân hàng cho 1 khách hàng
là rất lớn và do ngân hàng nắm giữ tiền gửi của khách hàng nên ngân hàng
có uy tín trong bảo lãnh cho khách hàng. Ngân hàng thường bảo lãnh cho
khách hàng của mình mua chịu hàng hoá và trang thiết bị, phát hành chứng
khoán, vay vốn của tổ chức tín dụng khác
1.2. Lý thuyết về năng lực cạnh tranh của ngân hàng thương mại
1.2.1. Cạnh tranh
1.2.1.1. Khái niệm về cạnh tranh
Trong nền kinh tế thị trường thì cạnh tranh là một yếu tố không thể
thiếu, cạnh tranh khiến cho các doanh nghiệp phải nỗ lực không ngừng nếu
muốn tồn tại và phát triển. Vậy hiểu về cạnh tranh như thế nào cho đúng?
Từ trước tới nay có rất nhiều khái niệm về cạnh tranh:
Theo C.Mark: “Cạnh tranh là sự ganh đua, sự đấu tranh gay gắt giữa
các nhà tư bản nhằm giành giật những điều kiện thuận lợi trong sản xuất và
tiêu thụ hàng hoá để thu được lợi nhuận siêu ngạch”.
Theo Longman: “Cạnh tranh là hoạt động của một cá nhân hay tổ
chức cố gắng để chiến thắng hoặc giành được công việc kinh doanh từ các
đối thủ của mình”.
9
Luận văn tốt nghiệp Phạm Ngọc Lan – NH44A
Tương tự như vậy, theo kinh tế học: “Cạnh tranh là sự giành giật thị
trường (khách hàng) để tiêu thụ sản phẩm giữa các doanh nghiệp”.
Như vậy, có thể hiểu cạnh tranh giữa các NHTM là sự tranh giành
thị trường giữa các NHTM để thu được nhiều lợi nhuận.
1.2.1.2. Các phương thức cạnh tranh của ngân hàng thương mại
Giống như hầu hết các doanh nghiệp khác, các NHTM hoạt động
trong môi trường cạnh tranh rất gay gắt. Các NHTM không chỉ cạnh tranh
với nhau, mà còn cạnh tranh với các tổ chức tài chính phi ngân hàng. Trong
điều kiện như vậy, các NHTM sử dụng nhiều phương thức cạnh tranh khác
nhau: cạnh tranh bằng lãi suất, cạnh tranh bằng công nghệ, cạnh tranh bằng
đa dạng hoá sản phẩm, dịch vụ, cạnh tranh bằng mở rộng mạng lưới, cạnh
tranh bằng marketing…
Thứ nhất, cạnh tranh bằng lãi suất: Đối với các ngân hàng thương
mại thì lãi suất chính là giá cả của đồng vốn, ảnh hưởng tới khả năng huy
động vốn và cấp tín dụng của ngân hàng – hai hoạt động cơ bản của mỗi
NHTM. Khi các điều kiện về uy tín của NHTM, thủ tục và phong cách cho
vay của cán bộ ngân hàng không đổi thì vốn sẽ chảy từ nơi có lãi suất thấp
đến nơi có lãi suất cao. Đây là công cụ được sử dụng rộng rãi, tuy nhiên
công cụ này vẫn có mặt hạn chế: khi nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư có
hạn, nếu cứ tăng lãi suất thì chỉ làm cho tiền gửi từ NHTM này chạy sang
NHTM khác, ảnh hưởng tới tình hình tài chính chung của các NHTM. Vì
vậy, đây không phải là phương thức cạnh tranh có thể sử dụng lâu dài.
Thứ hai, cạnh tranh bằng công nghệ: Công nghệ ngân hàng quyết
định chất lượng và tốc độ giao dịch của ngân hàng. Công nghệ hiện đại là
điều kiện để ngân hàng phát triển các dịch vụ có chất lượng cao, đó là các
dịch vụ đáp ứng được các yêu cầu: thoả mãn tối đa nhu cầu của khách
hàng, đảm bảo tính tiện lợi, ổn định và an toàn cho khách hàng khi sử
dụng, linh hoạt và phù hợp với tập quán sử dụng của từng đối tượng khách
10
Luận văn tốt nghiệp Phạm Ngọc Lan – NH44A
hàng, luôn cập nhật tiến bộ mới của công nghệ thông tin để không bị tụt
hậu.
Thứ ba, cạnh tranh bằng đa dạng hoá sản phẩm, dịch vụ: sản phẩm
dịch vụ của các NHTM về cơ bản là giống nhau, để tạo nên sự khác biệt
hoá sản phẩm là rất khó khăn. Vì vậy, việc đa dạng hoá sản phẩm, dịch vụ
là một cách để thu hút và giữ chân khách hàng, tránh tình trạng khách hàng
bỏ sang ngân hàng khác vì nó tạo ra những cơ hội lựa chọn phong phú cho
khách hàng, đáp ứng tối đa nhu cầu của khách hàng.
Thứ tư, cạnh tranh bằng mở rộng mạng lưới: Việc mở rộng mạng
lưới sẽ giúp ngân hàng tiếp cận được với nhiều đối tượng khách hàng hơn,
tạo thuận lợi cho khách hàng dễ dàng giao dịch với ngân hàng mà không
phải đi xa.
Thứ năm, cạnh tranh bằng marketing: Marketing giúp ngân hàng
hướng tới khách hàng, đáp ứng tối đa nhu cầu của khách hàng và thông qua
đó để tối đa hoá lợi nhuận của mình. Cạnh tranh bằng marketing có nghĩa
là ngân hàng phải tìm hiểu về nhu cầu của khách hàng, về thị trường, về đối
thủ cạnh tranh, và năng lực của mình, từ đó xây dựng chiến lược marketing
phù hợp.
1.2.2. Khái niệm về năng lực cạnh tranh của ngân hàng thương mại
Vì sao lại có những công ty này mạnh hơn những công ty khác? Vì
sao lại có những quốc gia này giàu có hơn những quốc gia khác? Liệu các
nước kém phát triển hơn có thể phát triển kịp các quốc gia đã phát triển?
Các công ty nhỏ, mới thành lập có khả năng cạnh tranh với các công ty lớn
mà danh tiếng đã được khẳng định không? Làm thế nào để có thể cạnh
tranh được.
Rất nhiều nhà kinh tế học, các nhà kinh tế đã đi tìm câu trả lời cho
những câu trả lời này. Trong những năm thuộc thế kỷ 18 Adam Smith đã
cố gắng lý giải câu hỏi “Cái gì làm cho một quốc gia trở nên giàu có?” và
ông đã cho ra đời lý thuyết về lợi thế tuyệt đối trong tác phẩm “Bản chất về
11
Luận văn tốt nghiệp Phạm Ngọc Lan – NH44A
sự giàu có của các quốc gia”. Đi xa hơn học thuyết của Adam Smith, David
Ricardo đã xây dựng lý thuyết lợi thế so sánh để lý giải về những lợi ích
trong thương mại quốc tế và đồng thời cũng lý giải cho việc vì sao có
những nước phát triển hơn nhờ vào việc khai thác những lợi thế tương đối
của mình.
Trên cơ sở kế thừa lý thuyết về lợi thế so sánh, các nhà kinh tế học
hiện đại đã tập trung phát triển và đang dần hình thành nên một hệ thống
khái niệm mới về năng lực cạnh tranh. Rất nhiều các học thuyết đã được
xây dựng để phân tích năng lực cạnh tranh của các quốc gia cũng như các
công ty, doanh nghiệp. Trong đó, nổi bật nhất phải kể đến học thuyết của
Michael Porter. Trong các tác phẩm của mình, Michael Porter đã có những
nghiên cứu rất toàn diện về năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp,
công ty và năng lực cạnh tranh của ngành cũng như của quốc gia.
Theo Michael Porter, “Để có thể cạnh tranh thành công, các doanh
nghiệp phải có được lợi thế cạnh tranh dưới hình thức hoặc là có được chi
phí sản xuất thấp hơn, hoặc là có khả năng khác biệt hoá sản phẩm để đạt
được những mức giá cao hơn trung bình. Để duy trì lợi thế cạnh tranh, các
doanh nghiệp cần ngày càng đạt được những lợi thế cạnh tranh tinh vi hơn,
qua đó có thể cung cấp những hàng hoá hay dịch vụ có chất lượng cao hơn
hoặc sản xuất có hiệu suất cao hơn”
(2)
.
Quan niệm của Porter đã đề cập đến vấn đề năng lực cạnh tranh còn
bao hàm cả việc doanh nghiệp phải liên tục duy trì lợi thế cạnh tranh của
mình. Nói cách khác, doanh nghiệp phải liên tục duy trì mức lợi nhuận trên
cơ sở bám sát với nhịp độ phát triển của thị trường hoặc thậm chí chủ động
tạo nên sự phát triển của thị trường. Việc hạ thấp giá thành sản phẩm để
nâng cao năng lực cạnh tranh theo quan niệm mang tính dài hạn này của
Porter cũng như đại đa số các nhà nghiên cứu khác không bao gồm việc hạ
thấp giá thành bằng những biện pháp có tính tiêu cực như cắt giảm lương
2()
The Competitive Advantage of Nation, Micheal Porter, tr10, Nxb.The Free Presss, 1990.
12
Luận văn tốt nghiệp Phạm Ngọc Lan – NH44A
nhân viên, cắt giảm các chi phí bảo hộ lao động, cắt giảm chi phí phúc lợi,
cắt giảm chi phí môi trường… Năng lực cạnh tranh ở đây cần phải được
gắn liền với khả năng phát triển bền vững, sử dụng hiệu quả các nguồn lực
của xã hội.
Từ những quan điểm trên, áp dụng đối với các ngân hàng thương mại
thì PGS, TS Nguyễn Thị Quy cho rằng: “Năng lực cạnh tranh của một
ngân hàng là khả năng ngân hàng đó tạo ra, duy trì và phát triển những
lợi thế nhằm duy trì và mở rộng thị phần, đạt được mức lợi nhuận cao
hơn mức trung bình của ngành và liên tục tăng đồng thời đảm bảo sự
hoạt động an toàn và lành mạnh, có khả năng chống đỡ và vượt qua
những biến động bất lợi của môi trường kinh doanh”
(3)
.
1.2.3. Các chỉ tiêu đánh giá năng lực cạnh tranh nội tại của ngân hàng
thương mại
Để có thể đánh giá năng lực cạnh tranh nội tại của ngân hàng thương
mại cần đưa ra được một hệ thống chỉ tiêu. Hệ thống chỉ tiêu này không chỉ
phản ánh năng lực cạnh tranh hiện tại mà còn phải phản ánh được khả năng
duy trì và phát triển lợi thế cạnh tranh của ngân hàng trong tương lai. Việc
xác định được hệ thống các chỉ tiêu này có ý nghĩa rất quan trọng cho mỗi
ngân hàng để có định hướng xây dựng, khai thác và phát triển lợi thế cạnh
tranh của mình. Các chỉ tiêu bao gồm: tiềm lực tài chính, năng lực công
nghệ, nguồn nhân lực, năng lực quản lý và cơ cấu tổ chức, hệ thống kênh
phân phối và mức độ đa dạng hoá các dịch vụ cung cấp.
1.2.3.1. Tiềm lực tài chính
Đánh giá năng lực cạnh tranh của một ngân hàng thương mại, vấn đề
đầu tiên thường được quan tâm là tiềm lực tài chính của ngân hàng đó.
Tiềm lực tài chính được thể hiện qua nhiều chỉ tiêu khác nhau, ở đây chỉ
3()
Năng lực cạnh tranh của các Ngân hàng thương mại trong xu thế hội nhập, PGS,TS
Nguyễn Thị Quy, tr22, Nxb Lý luận Chính trị,Hà Nội, 2005
13
Luận văn tốt nghiệp Phạm Ngọc Lan – NH44A
đưa ra một số chỉ tiêu cơ bản nhất, đó là: mức độ an toàn vốn và khả năng
huy động vốn, chất lượng tài sản, mức sinh lợi, khả năng thanh khoản.
- Mức độ an toàn vốn và khả năng huy động vốn: Tiềm lực về vốn
thể hiện qua các chỉ tiêu cụ thể như: quy mô vốn chủ sở hữu, hệ số an toàn
vốn. Năng lực tài chính của một ngân hàng thương mại thể hiện trước hết ở
quy mô vốn chủ sở hữu, quy mô vốn chủ sở hữu như là tấm đệm đảm bảo
cho mỗi ngân hàng có khả năng chống đỡ trước những rủi ro trong hoạt
động ngân hàng cũng như những rủi ro của môi trường kinh doanh. Vốn
chủ sở hữu của các ngân hàng càng lớn thì ngân hàng càng có khả năng
chống đỡ cao hơn đối với những “cú sốc” của môi trường kinh doanh. Điều
này ngày càng trở nên quan trọng trong điều kiện môi trường kinh doanh
có những biến động khôn lường, khi sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các nền
kinh tế ngày càng gia tăng trong điều kiện hội nhập như hiện nay, những
rủi ro bất ngờ luôn tiềm ẩn. Vốn chủ sở hữu còn ảnh hưởng tới khả năng
đầu tư vào công nghệ ngân hàng vì ngân hàng chỉ có thể sử dụng vốn chủ
sở hữu đầu tư vào công nghệ. Vì vậy, quy mô vốn chủ sở hữu nhỏ sẽ là một
bất lợi. Đây là một trong những nguồn lực quan trọng nhất quyết định khả
năng cạnh tranh của ngân hàng.
Theo quyết định 457/QĐ – NHNN của Thống đốc Ngân hàng nhà
nước thì tổ chức tín dụng trừ chi nhánh ngân hàng nước ngoài, phải duy trì
tỷ lệ tối thiểu % giữa vốn tự có so với tổng tài sản “Có” rủi ro là 8%.
HSATV =
- Chất lượng tài sản: phản ánh “sức khoẻ” của một ngân hàng. Chất
lượng tài sản được thể hiện thông qua các chỉ tiêu như: tỷ lệ nợ xấu trên
tổng tài sản, mức độ lập dự phòng và khả năng thu hồi các khoản nợ xấu,
mức độ tập trung và đa dạng hoá của danh mục tín dụng, rủi ro tín dụng
tiềm ẩn.
- Mức sinh lợi: là chỉ tiêu phản ánh kết quả hoạt động của ngân hàng,
đồng thời cũng phản ánh một phần kết quả cạnh tranh của ngân hàng. Chỉ
14

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét