Thứ Tư, 1 tháng 1, 2014

Phân tích rủi ro quốc gia – trường hợp việt nam

Phân tích rủi ro quốc gia - Trường hợp Việt Nam GVHD: TS. Trương Quang Thông
khái niệm này có khuynh hướng thể hiện rủi ro quốc gia.
- Rủi ro kinh tế: một sự thay đổi đáng kể trong cơ cấu kinh tế hay tỷ lệ tăng trưởng mà
tạo ra một thay đổi chủ yếu trong thu nhập kỳ vọng của một đầu tư. Rủi ro này phát sinh
từ khả năng tiềm tàng của những thay đổi bất lợi trong mục tiêu của các chính sách kinh
tế chủ yếu (chính sách tài khoá, chính sách quốc tế, chính sách phân bổ của cải hay
chính sách sản xuất) hay phát sinh từ một thay đổi đáng kể trong lợi thế so sánh của
quốc gia (như cạn kiệt tài nguyên, suy thoái công nghiệp, dịch chuyển dân cư).
- Rủi ro chuyển giao: rủi ro phát sinh từ một quyết định bởi chính phủ một quốc gia về
việc hạn chế sự di chuyển của dòng vốn nước ngoài. Những hạn chế này có thể là: gây
khó khăn cho việc chuyển lợi nhuận, cổ tức, hay vốn về nước. Rủi ro chuyển giao cũng
có thể hiểu là khả năng mà một tài sản không thể chuyển đổi sang một đồng tiền thanh
toán (đồng tiền có khả năng chuyển đổi) bởi vì quốc gia vay nợ thiếu ngoại hối cần thiết
hay kiềm chế khả năng này.
- Rủi ro tỷ giá: một sự biến động bất lợi không mong đợi trong tỷ giá hối đoái. Trong
ngắn hạn, rủi ro đối với nhiều đồng tiền có thể được loại bỏ ở một chi phí có thể chấp
nhận được thông qua các cơ chế phòng ngừa khác nhau và các hợp đồng tương lai. Một
chính sách tỷ giá hối đoái cố định của một quốc gia có thể giúp cô lập rủi ro rủi ro tỷ giá.
Kiềm chế mức độ thả nổi tỷ giá cùng với việc chính phủ cố gắng kiểm soát đồng tiền
trong một phạm vi chật hẹp, có khuynh hướng gây ra rủi ro cao hơn là hệ thống tỷ giá cố
định hay tỷ giá chuẩn tiền tệ. Hệ thống tỷ giá hối đoái thả nổi thông thường duy trì rủi ro
thấp hơn đối với việc gây ra một sự dịch chuyển tỷ giá bất lợi không mong đợi. Mức độ
đánh giá cao hay thấp của một đồng tiền cũng có thể giúp cô lập rủi ro tỷ giá hối đoái.
- Rủi ro vị trí hay rủi ro vùng lân cận: bao hàm các hiệu ứng dây chuyền gây nên bởi
những khó khăn trong một khu vực, bởi một nước đối tác của một quốc gia, hay trong
các quốc gia với những tính chất tương tự.
- Rủi ro thể chế: liên quan đến việc hoặc một chính phủ sẽ không sẵn lòng hay không thể
đáp ứng được các nghĩa vụ nợ, hoặc là có thể bội ước các cam đoan đối với các khoản
vay nợ.
- Rủi ro chính trị: liên quan đến một thay đổi trong thể chế chính trị xuất phát từ một thay
đổi trong quyền lực kiểm soát chính phủ, cơ cấu xã hội, hay nhân tố phi kinh tế khác.
Loại rủi ro này bao hàm khả năng tiềm tàng đối với những xung đột bên trong và bên
ngoài, rủi ro sung công. Đánh giá rủi ro này đòi hỏi phân tích nhiều nhân tố, bao gồm
các mối quan hệ của các đảng phái khác nhau trong một quốc gia, quá trình ra quyết
định trong chính phủ, và lịch sử của quốc gia đó.
II. CÁC NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN RỦI RO QUỐC GIA
1. Các nhân tố kinh tế vĩ mô:
1.1. Nhân tố đầu tiên trong các nhân tố này là quy mô và cấu trúc của nợ nước ngoài trong
mối quan hệ với nền kinh tế của quốc gia đó, bao gồm:
- Mức độ hiện tại của nợ ngắn hạn và khả năng tiềm tàng đưa đến một cuộc khủng hoảng
Trang 5
Phân tích rủi ro quốc gia - Trường hợp Việt Nam GVHD: TS. Trương Quang Thông
thanh khoản.
- Quy mô nợ nước ngoài của khu vực công, khả năng của chính phủ để tạo ra đủ thu nhập,
từ thuế và các nguồn khác, để đáp ứng nghĩa vụ nợ.
1.2. Điều kiện và tính dễ tổn thương của tài khoản vãng lai của quốc gia cũng là một nhân
tố quan trọng, bao gồm:
- Mức dự trữ quốc tế.
- Mức dự trữ nhập khẩu được cung cấp bởi dự trữ quốc tế của quốc gia.
- Tính quan trọng của hàng hóa xuất khẩu với tư cách là một nguồn thu nhập, sự hiện hữu
của bất kỳ cơ chế ổn định giá, và tính dễ tổn thương của quốc gia đối với một sự sụt
giảm trong thị trường xuất khẩu hay trong giá cả của một hàng hóa xuất khẩu.
- Khả năng tiềm tàng đối với những biến động đột ngột trong tỷ giá hối đoái và tác động
lên giá trị xuất khẩu và nhập khẩu của quốc gia.
1.3. Vai trò của các nguồn vốn nước ngoài trong việc đáp ứng nhu cầu tài trợ của quốc gia
là một sự suy xét quan trọng khác trong việc phân tích rủi ro quốc gia, bao gồm:
- Việc tiếp cận các thị trường tài chính quốc tế của quốc gia và những ảnh hưởng tiềm
tàng của một tổn thất trong tính thanh khoản của thị trường.
- Mối quan hệ của quốc gia với các nhà cấp tín dụng của khu vực tư nhân, bao gồm sự tồn
tại của những cam kết vay mượn và thái độ của các chủ ngân hàng đối với quan hệ trong
việc cho vay thêm đối với các nhà đi vay trong quốc gia đó.
- Vị thế hiện thời của quốc gia đối với các nhà cấp tín dụng đa phương và chính thức, bao
gồm khả năng của quốc gia để có đủ tư cách và chịu đựng được những chương trình
điều chỉnh kinh tế của IMF hay các chương trình phù hợp khác.
- Xu hướng trong đầu tư nước ngoài và khả năng của quốc gia trong việc thu hút Những
cơ hội của tiến trình tư nhân hóa của các thực thể thuộc sở hữu nhà nước.
1.4. Một số các nhân tố kinh tế vĩ mô quan trọng khác, bao gồm:
- Mức độ mà nền kinh tế của quốc gia có thể bị tác động bất lợi thông qua sự lây lan các
vấn đề khó khăn từ các quốc gia khác.
- Quy mô và tình hình của hệ thống ngân hàng của quốc gia, bao gồm hệ thống giám sát
hoạt động ngân hàng và bất kỳ gánh nặng tiềm tàng của các khoản nợ bất ngờ mà một hệ
thống ngân hàng yếu kém có thể gây ra những hậu quả nghiêm trọng đối với chính phủ.
- Quy mô của vay mượn trực tiếp từ chính phủ hay sự can thiệp khác của chính phủ có thể
tác động bất lợi đến tính hoàn hảo của hệ thống ngân hàng, hay cơ cấu và khả năng cạnh
tranh của các ngành công nghiệp hay các công ty được ưu đãi.
- Mức độ tác động mà các điều kiện kinh tế vĩ mô có thể gây ra bất lợi đối với rủi ro tín
dụng của các đối tác của nhà đầu tư trong quốc gia đó.
- Viễn cảnh kinh tế của bất kỳ ngành công nghiệp mục tiêu của quốc gia.
- Đầu tư nước ngoài trong tương lai.
Trang 6
Phân tích rủi ro quốc gia - Trường hợp Việt Nam GVHD: TS. Trương Quang Thông
2. Môi trường xã hội, chính trị và pháp luật
- Tiềm lực tự nhiên và nguồn nhân lực của quốc gia.
- Thiện chí và năng lực của chính phủ để nhận biết những vấn đề kinh tế và vấn đề ngân
sách và hành động để sữa chữa bổ sung thích hợp.
- Mức độ tác động của tư tưởng bè phái, chính trị hay xung đột vũ trang đến chính phủ
của quốc gia đó.
- Bất cứ xu hướng nào về việc đánh thuế giá cả, lãi suất, hay kiểm soát ngoại hối.
- Mức độ mà hệ thống pháp luật có thể bảo vệ một cách công bằng lợi ích của các nhà tín
dụng nước ngoài và nhà đầu tư.
- Các chính sách khuyến khích của chính phủ trong việc quản lý hiệu quả rủi ro của các tổ
chức định chế.
- Mức độ gia nhập của quốc gia vào hệ thống pháp luật và các chuẩn mực kinh doanh
quốc tế.
III. VAI TRÒ VÀ TÁC ĐỘNG CỦA VIỆC ĐÁNH GIÁ RỦI RO QUỐC GIA
Đánh giá rủi ro quốc gia là việc sử dụng các dữ liệu thống kê hay các nhận xét định tính của
các chuyên gia nhằm đưa ra một xếp hạng cho từng quốc gia ứng với mức độ rủi ro quốc gia
của quốc gia đó. Một chức năng chính của đánh giá rủi ro quốc gia là để lường trước khả năng
bội ước, không thể trả nợ hay trì hoãn thanh toán của chính phủ đi vay. Đánh giá rủi ro quốc
gia cũng là để dự báo các điều kiện tương lai đối với việc đầu tư trong một quốc gia. Đánh giá
rủi ro quốc gia đo lường các nhân tố kinh tế, tài chính, chính trị và các tác động qua lại giữa
các nhân tố này nhằm xác định rủi ro gắn liền với một quốc gia cụ thể.
1. Vai trò của việc đánh giá rủi ro quốc gia
Đánh giá rủi ro quốc gia có vai trò quan trọng vì nó biểu hiện mức độ rủi ro của một quốc gia.
Đánh giá rủi ro quốc gia không những quan trọng đối với chính phủ của quốc gia được đánh
giá rủi ro quốc gia mà còn rất quan trọng đối với các nhà đầu tư và các nhà cho vay quốc tế.
- Đối với chính phủ: Thông qua việc đánh giá rủi ro quốc gia, chính phủ có thể nhận biết
được thực trạng nền kinh tế, những yếu kém và triển vọng của quốc gia. Từ đó có thể đề
ra các chính sách, biện pháp mang tính vĩ mô nhằm khắc phục để dần nâng cao mức tín
nhiệm, thu hút vốn đầu tư nước ngoài nhiều hơn để đạt được mục tiêu tăng trưởng kinh
tế. Với việc đánh giá rủi ro quốc giá, chính phủ cải thiện mức rủi ro quốc gia của mình
sẽ giảm thiểu được chi phí vay mượn trên thị trường quốc tế vì nguyên tắc tài chính cơ
bản chỉ ra rằng rủi ro càng cao thì phần bù rủi ro càng cao.
- Đối với các nhà đầu tư: thông qua việc đánh giá rủi ro quốc gia, các nhà đầu tư trong
nước cũng như chính phủ sẽ nhận biết được mức độ rủi ro chung của quốc gia từ đó so
sánh với mức độ rủi ro của riêng mình để có các chiến lược đầu tư cụ thể và vững chắc
nhằm thu được tỷ suất sinh lợi cao nhất.
Đánh giá rủi ro quốc gia cung cấp cho các nhà cho vay quốc tế và các nhà đầu tư quốc tế biết
được khả năng thu hồi các khoản vốn vay của mình và mức thu nhập kỳ vọng có được từ đầu
Trang 7
Phân tích rủi ro quốc gia - Trường hợp Việt Nam GVHD: TS. Trương Quang Thông
tư. Tiến trình đánh giá rủi ro quốc gia nhằm cung cấp các thông tin tốt nhất cho việc dự báo
các khả năng có thể xảy ra, là một công cụ giúp các nhà cho vay và đầu tư quốc tế ra quyết
định cho vay hay đầu tư vào một quốc gia cụ thể.
2. Tác động của việc đánh giá rủi ro quốc gia
Việc đánh giá rủi ro quốc gia thông qua xếp hạng rủi ro quốc gia đem lại những tác động rất
quan trọng:
- Thứ nhất, xếp hạng rủi ro quốc gia ảnh hưởng đến mức lãi suất mà quốc gia phải gánh
chịu để có thể đạt được một khoản tín dụng trên thị trường quốc tế: xếp hạng cao (tức là
mức độ rủi ro thấp) thì lãi suất sẽ thấp và ngược lại.
- Thứ hai, xếp hạng rủi ro quốc gia cũng ảnh hưởng đến xếp hạng tín dụng của các ngân
hàng và các công ty ở quốc gia đó và tác động đến khả năng thu hút các nhà đầu tư nước
ngoài thông qua việc ảnh hưởng đến việc đánh giá chi phí kinh doanh.
- Thứ ba, các định chế đầu tư thường giới hạn mức rủi ro mà họ có thể chấp nhận, nghĩa là
họ không thể đầu tư vào các khoản nợ hoặc đầu tư cổ phần bị xếp hạng thấp hơn một
mức đã định.
Tuy nhiên, việc xếp hạng rủi ro quốc gia xếp hạng rủi ro quốc gia tồn tại một số vấn đề:
- Tính chính xác và độ tin cậy của kết quả xếp hạng rủi ro quốc gia của các tổ chức là
đáng ngờ, chủ yếu vì sự can thiệp cảm tính và xung đột về lợi ích.
- Các tổ chức xếp hạng rủi ro quốc gia được hưởng lợi từ việc đưa ra quyết định xếp hạng
tín nhiệm mà không cần phải chịu trách nhiệm với nhà đầu tư về các ý kiến đưa ra.
IV. XẾP HẠNG RỦI RO QUỐC GIA:
Hiện nay trên thế giới có nhiều tổ chức có uy tín trong việc xếp hạng tín nhiệm nằm đánh
giá rủi ro quốc gia. Trong đó phải kể đến Standard & Poor's (S&P), International Country Risk
Guide (ICFG), Moody’s, Flitch, Institutional Investor, Euromoney, Political Risk Services, .
Xếp hạng rủi ro quốc gia là một trong những phương pháp đánh giá rủi ro quốc gia, thường
được dùng để dự báo các điều kiện tương lai đối với việc đầu tư vào một quốc gia vì phương
pháp này đo lường các nhân tố kinh tế, tài chính, chính trị và các tác động qua lại giữa các
nhân tố này nhằm xác định rủi ro gắn liền với một quốc gia cụ thể.
Thông qua việc xếp hạng rủi ro quốc gia (chính phủ tự đánh giá hay thông qua các cơ quan
xếp hạng tín nhiệm) thì các chính phủ có thể nhận biết được thực trạng nền kinh tế, những yếu
kém và triển vọng của quốc gia. Từ đó, các nhà lãnh đạo có thể đề ra các chính sách, biện pháp
mang tính vĩ mô nhằm khắc phục, nâng cao mức tín nhiệm trên trường quốc tế, thu hút nhiều
hơn vốn đầu tư quốc tế để đạt được mục tiêu tăng trưởng kinh tế. Thêm vào đó với việc cải
thiện mức độ rủi ro quốc gia của mình thì chính phủ một quốc gia sẽ giảm thiểu được chi phí
vay mượn trên thị trường quốc tế vì nguyên tắc tài chính cơ bản chỉ ra rằng rủi ro càng cao thì
phần bù rủi ro càng cao.
Xếp hạng rủi ro quốc gia là phương pháp được sử dụng thường xuyên để đánh giá rủi ro
quốc gia vì nó dễ tạo ra ảnh hưởng trực quan tức thời đối với người sử dụng báo cáo, đồng thời
Trang 8
Phân tích rủi ro quốc gia - Trường hợp Việt Nam GVHD: TS. Trương Quang Thông
cũng tương đối đơn giản và dễ so sánh độ rủi ro giữa các quốc gia với nhau. Một lợi thế khác
của xếp hạng rủi ro quốc gia là các đánh giá này ngày càng trở nên phổ biến hơn với giới kinh
doanh trên khắp thế giới thông qua các phương tiện truyền thông so với các bản phân tích
mang tính học thuật cao, ít phổ biến và khó sử dụng hơn.
Trang 9
Phân tích rủi ro quốc gia - Trường hợp Việt Nam GVHD: TS. Trương Quang Thông
CHƯƠNG 2
PHÂN TÍCH RỦI RO QUỐC GIA DƯỚI GÓC ĐỘ CỦA VIỆT NAM
I. NHẬN ĐỊNH VỀ RỦI RO KINH TẾ:
1. Tăng trưởng kinh tế
Từ khi thực hiện cải cách mở cửa, từ bỏ mô hình kinh tế kế hoạch hoá tập trung bao cấp
chuyển sang nền kinh tế thị trường và hội nhập sâu rộng với quốc tế, Việt Nam đã đạt được nhiều
thành tựu đáng kể. Nếu năm 1990, GDP đầu người của Việt Nam thuộc dạng thấp nhất thế giới
(98 USD/người) thì năm 2010, tức là chưa đầy 20 năm, đã tăng gần 12 lần lên mức 1.130
USD/người. Chỉ xét về phương diện tăng trưởng kinh tế thì trong suốt giai đoạn 20 năm từ 1990
đến 2010, tổng sản phẩm quốc nội của Việt Nam đã tăng 7,3%/năm, cao hơn so với nhiều quốc gia
trong khu vực châu Á (Bagnaia, Rieber & Tran, 2013).
Tuy nhiên, từ năm 2008, trước tác động không thể tránh khỏi của cuộc khủng hoảng tài chính
– kinh tế toàn cầu, tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam đã suy giảm dần. Đà suy giảm không
mấy được cải thiện trong các năm sau, thậm chí năm 2012 là năm thứ hai liên tiếp tốc độ tăng
trưởng kinh tế suy giảm (năm 2011 là 5,89%). Năm 2012 cũng là năm mà chỉ số này đã xuống
mức thấp nhất kể từ năm 1999 (4,77%) là 5,03%, trong đó quý I tăng 4,64%, quý II tăng 4,80%,
quý III tăng 5,05% và quý IV tăng 5,44%. Điều này cảnh báo rằng mục tiêu tăng trưởng 6,5%-7%
trong giai đoạn 2011-2015 sẽ gần như không thể đạt được bởi lẽ để chạm đến mục tiêu đó thì GDP
phải tăng từ 8 đến 9% trong hai năm còn lại (2014-2015) với dự báo tốc độ tăng trưởng năm 2013
là 5,5%. Chú ý rằng từ năm 1996 đến nay, chưa có năm nào Việt Nam tăng trưởng đến 9%/năm.
Đây được xem là một điểm tối của nền kinh tế Việt Nam năm vừa qua bởi vì so với các nước
trong khu vực cùng chịu ảnh hưởng chung của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu thì Việt Nam là
nước có mức giảm tốc độ tăng trưởng rất mạnh. Từ một nước đứng thứ hai châu Á về tốc độ tăng
trưởng (chỉ sau Trung Quốc) thì nay nhịp độ vươn lên của nền kinh tế Việt Nam sút giảm về mức
chỉ xấp xỉ 5-6% trong suốt giai đoạn 2009-2012, nhường chỗ cho Lào lên ngôi đầu về tốc độ tăng
trưởng kinh tế trong khu vực Đông Nam Á vào năm 2012 (8,3%).
Như vậy, trong ngắn hạn vài năm tới, có thể thấy rằng Việt Nam vẫn có triển vọng tăng trưởng
nhưng mức tăng trưởng sẽ còn bấp bênh và chưa thể quay về mức “hoàng kim” trên 8% của
những năm 2004-2006. Nguy cơ nền kinh tế quay về suy thoái là hoàn toàn có thể xảy ra, tiềm
tàng rủi ro cao khi quyết định đầu tư tại Việt Nam.
2. Lạm phát
Trang 10
Phân tích rủi ro quốc gia - Trường hợp Việt Nam GVHD: TS. Trương Quang Thông
Từ tháng 12 năm 2007, lạm phát cao quay trở lại Việt Nam khi chỉ số CPI vượt ngưỡng hai
chữ số. Đầu năm 2008 còn xảy ra một số biến động giá bất thường như sự kiện “khan hiếm gạo”
ảo ở miền Nam vào tháng 4. Chính phủ Việt Nam nhận thức được mối nguy và nhanh chóng thực
hiện chiến lược kiềm chế lạm phát với 8 nhóm giải pháp. Nhờ những biện pháp kịp thời và linh
hoạt này mà tình hình lạm phát các tháng cuối năm 2008 đã được kiềm chế, tuy vậy giá cả vẫn ở
mức cao và còn nhiều diễn biến phức tạp.
Hình 1: Biến động chỉ số lạm phát của Việt Nam so với các nước Philippines, Trung Quốc, Thái
Lan và Malaysia trong giai đoạn 2005-2008
CPI năm 2008 đã liên tục tăng cao từ đầu năm. Kết thúc năm 2008, chỉ số CPI tăng 19,89%,
tính theo trung bình năm tăng 22,97%.
Năm 2009, suy thoái của kinh tế thế giới khiến sức cầu suy giảm, giá nhiều hàng hóa cũng
xuống mức khá thấp, lạm phát trong nước được khống chế. CPI năm 2009 tăng 6.52%, thấp hơn
đáng kể so với những năm gần đây. Tuy vậy, mức tăng này nếu so với các quốc gia trong khu vực
Đông Nam Á lại cao hơn rất nhiều.
Hình 2: Diễn biến chỉ số giá tiêu dùng năm 2009 (%)
Năm 2010, mức lạm phát 2 con số của Việt Nam là 11,75% tuy không quá bất ngờ nhưng vẫn
vượt so với chỉ tiêu được Quốc hội đề ra từ đầu năm là gần 5%. Tính chung trong năm 2010 thì
giáo dục là nhóm tăng giá mạnh nhất trong rổ hàng hóa tính CPI (gần 20%). Tiếp đó là hàng ăn
Trang 11
Phân tích rủi ro quốc gia - Trường hợp Việt Nam GVHD: TS. Trương Quang Thông
(16,18%) và nhà ở - vật liệu xây dựng (15,74%). Bưu chính viễn thông là nhóm duy nhất giảm giá
với mức giảm gần 6% trong năm 2010. Tính chung trong cả năm 2010, giá vàng đã tăng tới 30%
trong khi mức tăng của USD là xấp xỉ 10%.
Năm 2011, lạm phát cả năm chốt ở mức tăng 18,13% . Dấu hiệu của tính quy luật theo tháng
chỉ còn rất mờ nhạt, diễn biến chỉ số giá tiêu dùng (CPI) trong năm 2011 nổi trội ở hai đột biến,
đến từ các mức tăng kỷ lục mới trong tháng 4 và tháng 7. Ngay từ đầu năm, Chính phủ đã đặt
quyết tâm kiềm chế lạm phát với chỉ tiêu chỉ có 7%. Tuy nhiên, lạm phát liên tiếp bị đẩy lên, CPI
theo tháng tăng 2,17% vào tháng 3. CPI đạt đỉnh vào tháng 4 ở mức 3,32% ngay sau tết âm lịch,
cao nhất trong 3 năm tính đến 2011. Đến lúc này, CPI so với cuối năm trước đã tăng 9,64%, vượt
xa mục tiêu 7%, hiện thực hóa nỗi lo lạm phát.
Hình 3: Diễn biến lạm phát ở Việt Nam, Philippines, Thái Lan, Indonesia, Malaysia giai đoạn
tháng 1/2007 đến 11/2011
Năm 2012, lạm phát dừng ở mức 6,81%, thấp hơn đáng kể so với chỉ tiêu đề ra là 8%. Đây là
một bước tiến tích cực so với mức 18,13% của năm 2011. Trong tháng 12 cuối năm 2012, các
nhóm hàng hóa và dịch vụ tăng cao nhất là may mặc, mũ nón, giày dép (1,17%); thiết bị và đồ
dùng gia đình (0,59%); văn hóa, giải trí và du lịch (0,34%) . Nhóm mặt hàng có quyền số lớn là
lương thực, thực phẩm và dịch vụ ăn uống chỉ tăng 0,28%. Nhờ sự quyết liệt trong chỉ đạo của
Chính phủ mà tốc độ tăng CPI có xu hướng chậm dần, đến tháng 12 chỉ tăng 0,27%, trong khi
thông thường thời điểm cuối các năm giá tăng cao.
Như vậy có thể thấy, lạm phát của Việt Nam giai đoạn 2008-2012 biến động hết sức thất
thường. Chính sách của Chính phủ thường mang tính thụ động sau khi đã có dấu hiệu lạm phát gia
tăng. Do chính sách tiền tệ thắt chặt để kiềm chế lạm phát mà hoạt động sản xuất kinh doanh lâm
vào đình đốn, ngưng trệ, trong khi chính sách tài khoá không có tác động rõ ràng. Rủi ro lạm phát
cao và đồng Việt Nam giảm mạnh sức mua luôn thường trực trong nền kinh tế nhiều năm qua,
tiềm ẩn nhiều bất trắc cho hoạt động đầu tư.
3. Thu chi ngân sách nhà nước và chính sách tài khóa
Bảng 1: Số liệu thu-chi ngân sách nhà nướcvà nợ công
Trang 12
Phân tích rủi ro quốc gia - Trường hợp Việt Nam GVHD: TS. Trương Quang Thông
Nguồn: Economic Intelligence Unit (2012).
Theo ước tính của Bộ Tài chính, tổng thu Ngân sách nhà nướcnăm 2011 ước đạt 674.500 tỷ
đồng, đạt 113,4% dự toán, tăng xấp xỉ 21% so với cùng kỳ năm 2010, trong đó thu nội địa ước
390.000 tỷ đồng, đạt 102% dự toán năm, tăng 16,6% so cùng kỳ 2010 (trong đó: tính đến hết
tháng 11/2011, thu từ kinh tế quốc doanh đạt 89,1% dự toán, tăng 12,1% so cùng kỳ; thu khu vực
công thương nghiệp và dịch vụ ngoài quốc doanh đạt 98,7% dự toán, tăng 23,7% so cùng kỳ; thu
từ doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đạt 94,0% dự toán, tăng 15,3% so với cùng kỳ; thuế thu
nhập cá nhân đạt 119,7% dự toán, tăng 45,4% so cùng kỳ; các khoản thu từ nhà và đất đạt 135,9%
dự toán, tăng 7,8% so với cùng kỳ .). Theo số liệu của Tổng cục Hải quan, thu từ xuất nhập khẩu
ước 186.833 tỷ đồng, đạt 99% dự toán năm, tăng 19,3% so với cùng kỳ năm 2010) bất chấp chính
sách hạn chế nhập khẩu và giảm, miễn thuế đối với nhập khẩu xăng dầu những tháng đầu năm.
Thu từ hoạt động xuất nhập khẩu tăng do nhiều nguyên nhân, trong đó có tác động từ tăng kim
ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa, thay đổi tỷ giá đồng Việt Nam và các giải pháp mạnh nhằm
chống thất thu thuế của Bộ Tài chính Việt Nam.
Tổng chi (kể cả trả nợ và chuyển nguồn cho năm 2012) lũy kế cả năm 2011 ước đạt 796.000 tỷ
đồng, trong đó chi Ngân sách nhà nướckhông bao gồm trả nợ khoảng 732.000 tỷ đồng, bằng 101%
dự toán năm. Việc tốc độ tăng chi chỉ xấp xỉ lạm phát cho thấy cố gắng rất lớn trong điều hành
chính sách tài khóa 2011 của Chính phủ vì nhiều năm gần đây tốc độ tăng chi thường cao hơn
nhiều tốc độ lạm phát. Ước tính cả năm tổng chi cho đầu tư phát triển đạt 175.000 tỷ, chỉ tăng
2,34% so với cùng kỳ 2010. Đây là một con số rất đáng khích lệ trong bối cảnh lạm phát cao. Chi
trả nợ, viện trợ luỹ kế 11 tháng đạt 93.410 tỷ đồng, bằng 108,6% dự toán, tăng 18,6% so cùng kỳ
năm 2010, đảm bảo thanh toán đầy đủ và đúng hạn các khoản nợ đã cam kết.
Năm 2011 có tỷ lệ bội chi thực tế so với dự toán ước khoảng 4,9% GDP trong khi dự toán bội
chi Ngân sách nhà nước năm 2011 mà Quốc hội cho phép là 5,3% GDP. Việc thực hiện chặt chẽ
và giám sát hiệu quả hơn các quy định về chi tiêu Ngân sách nhà nước là những lý do giải thích
cho việc giảm bội chi ngân sách.
Sang năm 2012, lũy kế thu cả năm ước đạt 742.380 tỷ đồng, đạt 100,3% dự toán, trong đó thu
nội địa đạt 459.480 tỷ đồng, bằng 92,9% dự toán; Thu từ dầu thô đạt 144.400 tỷ đồng, bằng 166%
dự toán; Thu cân đối ngân sách từ hoạt động xuất nhập khẩu đạt 131.500 tỷ đồng, bằng 85,4% dự
toán; Thu viện trợ đạt 7.000 tỷ đồng, bằng 140% dự toán. Dự toán chi Ngân sách nhà nước năm
2012 là 903.100 tỷ đồng, lũy kế cả năm ước đạt 905.250 tỷ đồng, đạt 100,2% dự toán. Trong năm
Trang 13
Phân tích rủi ro quốc gia - Trường hợp Việt Nam GVHD: TS. Trương Quang Thông
2012 đã huy động vốn cho Ngân sách nhà nướcvà cho đầu tư phát triển thông qua phát hành trái
phiếu chính phủ đạt 140.000 tỷ đồng, đạt 100% kế hoạch đề ra, bằng 177% so với năm 2011.
Nhận xét về thực trạng vấn đề thu chi ngân sách nhà nước của Việt Nam, có thể rút ra rằng dù
trong điều hành chi Ngân sách nhà nước phải đảm bảo chi đúng, chi đầy đủ và chi kịp thời cho
những khoản cần chi, nhưng để đảm bảo chi đúng thì việc rà soát, đánh giá, phân loại đúng các
khoản chi, xác định các khoản chi thuộc phạm vi chức năng Ngân sách nhà nước phải đảm bảo
vẫn còn gặp nhiều khó khăn. Để có giới hạn chi đủ cần có định mức tiêu chuẩn phù hợp, nhưng
hiện nay hệ thống này của Việt Nam còn rất lạc hậu, không thống nhất giữa nhiều ngành nhiều
cấp. Chú trọng cho chi đầu tư phát triển là cần thiết, song, do cơ chế quản lý ngân sách theo đầu
vào nên chưa tạo được sự phối hợp cân đối giữa chi đầu tư phát triển và chi thường xuyên, dẫn
đến tình trạng thiếu linh hoạt trong sự điều phối nguồn lực trong nội bộ các ngành: có ngành chi
đầu tư phát triển quá cao so với những khoản chi thường xuyên cần thiết; ngược lại đối với một số
ngành khác. Chính sự thiếu phối hợp này đưa đến hiệu quả chi thấp. Thêm vào đó, chi ngân sách
vẫn chưa dứt bỏ hoàn toàn cơ chế bao cấp, không tính đến hiệu quả, gây lãng phí nguồn lực tài
chính Nhà nước. Tình trạng cấp vốn lưu động, gia hạn nợ đọng thuế hoặc khoanh nợ, đảo nợ,
giảm nợ… cho các doanh nghiệp nhà nước làm ăn thua lỗ vẫn tiếp tục diễn ra. Điều này, về lâu
dài không những có hại cho chính doanh nghiệp mà còn tạo nên gánh nặng cho ngân sách nhà
nước, vì những doanh nghiệp yếu kém thường thiếu sức cạnh tranh, không giải quyết được nợ nần
dây dưa gây hại đến cả hệ thống ngân hàng. Bên cạnh đó, các hoạt động đầu tư bằng vốn ngân
sách nhà nướckhông thật sự được công khai hóa, sự phân định trách nhiệm thiếu minh bạch, thiếu
sự giám sát toàn diện từ công chúng, năng lực quản lý của các bộ ngành yếu kém không theo kịp
xu hướng phát triển của nền kinh tế. Kết quả là tình trạng thất thoát, lãng phí vốn đầu tư xây dựng
cơ bản diễn ra rất phổ biến. Và, một khi khoản chi không được sử dụng hiệu quả thì mục đích của
việc vay nợ và khía cạnh tích cực của bội chi ngân sách sẽ không được phát huy. Tác động của
việc này là làm gia tăng các nghĩa vụ nợ tương lai của chính phủ, và do đó, gia tăng cả bội chi
ngân sách nhà nướctrong tương lai.
Tại Việt Nam tiềm ẩn rủi ro ngân sách rất lớn khi chất lượng đầu tư công của Việt Nam còn rất
thấp. Những người hay nhóm có thế lực chính trị thường lợi dụng các dự án đầu tư công để trục
lợi cá nhân và trở lên giàu có một cách bất chính. Khi đầu tư công trở thành đối tượng của các
hành vi trục lợi thì một mặt mục tiêu của dự án đầu tư không được thực hiện, đồng thời gánh nặng
chi phí sẽ được đặt lên vai của người dân và của nền kinh tế. Trên thực tế Việt Nam đang đánh
mất một phần đáng kể nguồn lực của mình do lãng phí và tham nhũng. Đây là nguy cơ có thể dẫn
đến các vấn đề nghiêm trọng hơn trong tương lai, góp phần đẩy rủi ro khi đầu tư vào Việt Nam
tăng lên.
Việt Nam cũng chi quá nhiều tiền được chi cho các dự án thâm dụng vốn và hàng nhập khẩu,
nhưng lại không đóng góp đúng mức cho tăng trưởng kinh tế. Quá nhiều tiền được chi cho các
doanh nghiệp lớn của nhà nước với mục đích đầu cơ. Việc chi tiêu cho cơ sở hạ tầng công cộng
thì không được ưu tiên đúng mức. Hiệu quả đầu tư thấp thể hiện ở chỉ số ICOR tăng. Hệ số ICOR
tăng lên nhanh chóng: năm 2007 là 5,2; 2008 là 6,6 và 2009 đã tăng lên trên 8. Chỉ số ICOR của
Việt Nam ở một mức rất cao không những so với các quốc gia mới nổi ở Châu Á mà còn cao so
Trang 14

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét