LỜI NÓI ĐẦU
Kinh tế là một trong những nhân tố quan trọng quyết định sự hưng vong
của đất nước. Kinh tế của mỗi nước giao lưu và hoà nhập này đang phát triển
theo xu thế toàn cầu. Chắc ai trong chúng ta ai cũng đã rõ song song với việc
phát triển “ xa lộ tin học” đã làm cho thế giới ngày nay dường như nhỏ bé lại,
thậm chí trở thành như một “ ngôi nhà thế giới” do dó, thị trường từng quốc
gia trở thành thị trường nằm trong thị trường thế giưoí thống nhất. Sức cạnh
tranh của các nước trở thành cạnh tranh toàn diện.Nếu trước đây mặt chủ yếu
trong kinh tế là kĩ thuật - kinh tế thì ngày nay là kinh tế - xã hội. đòi hỏi nâng
cao mặt xã hội trong kinh doanh đang được thể chế hoá ở nhiều nước. Ta biết,
xu hướng thống nhất lợi ích công ty với lợi ích quốc gia, liên quốc gia đã trở
thành một trong những tiêu chuẩn quan trọng để thẩm định dự án đầu tư.
Hiện nay trong lĩnh vực quản trị kinh doanh đang có sự thay đổi sâu sắc về
hai mặt: một là, quản lý dựa trên kinh nghiệm được thay thế bằng quản lý dựa
trên khoa học; hai là,đang diễn ra cuộc cách mạng trong các cơ quan quản lý (
cách mạng văn phòng ): về mặt thay đổi cơ sở vật chất kỹ thuật của quản lý
và tiêu chuẩn mới về nhân sự quản lý. Bởi vậy có thể nói thế kỷ XXI là thế kỷ
của con người, của nhân tài chiếm ưu thế sẽ thay thế cho kinh tế phát triển. Vì
rằng trong những thế kỷ tới, vấn đề nắm vững kỹ thuật và vấn đề nhân tài là
những nhân tố thực sự chiếm ưu thế. Ba yếu tố kỹ thuật, tri thức và trí tuệ sẽ
làm cho nhà quản lý giỏi, nhà quản lý tài ba trở thành nhân tố quan trọng
nhất, then chốt nhất của sự phát triển kinh tế của thế kỷ XXI.
Trong thực tế, các nhà quản lý kinh doanh của chúng ta chưa được chuẩn bị
đầy đủ cả về mặt chi thức, kĩ năng, cả về mặt tâm lý để bước vào cơ chế thị
trường. Hầu như các doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp vừa và nhỏ,
chưa có được một chiến lược kinh doanh dài hạn hướng vào những thị trường
mục tiêu đã được nghiên cứu kỹ với những nét độc đáo về công nghệ, sản
phẩm về phong cách quản lý cũng như kinh doanh.
Chính vì lý do thiết thực đó, nên em chọn đề tài : “ Những đòi hỏi đối
với nhà quản lý doanh nghiệp và phương sách thoả mãn những đòi hỏi ấy
trong điều kiện của nước ta ”. Để có thể giúp được một phần nhỏ bé của
mình vào việc quản lý doanh nghiệp đó. Ở đề tài này ngoài phần mở đầu và
kết luận với phần nội dung gồm:
I. Các khái niệm.
II. Những đòi hỏi đối với những nhà quản lý doanh nghiệp
III. Các phương pháp đào tạo các nhà quản lý
I. CÁC KHÁI NIỆM:
1. Quản lý:
Khi con người bắt đầu hình thành các nhóm để thực hiện những mục tiêu mà
họ không thể đạt được vơí tư cách là những cá nhân riêng lẻ, thì quản lý xuất
hiện như một yếu tố cần thiết để phối hợp những nỗ lực cá nhân hướng tới
những mục tiêu chung.
Có rất nhiều quan niệm khác nhau về quản lý:
- Quản lý là biết chính xác điều mình muốn người khác làm và sau đó thấy
được rằng họ đã hoàn thành công việc một cách tốt nhất và rẻ nhất.
- Quản lý là những hoạt động cần thiết phải được thực hiện khi những con
người kết hợp với nhau trong các nhóm, tổ chức nhằm đạt được những mục
tiêu chung.
- Quản lý là quá trình cùng làm việc và thông qua các cá nhân, các nhóm cũng
như các nguồn lực khác để hoàn thành các mục đích chung của một nhóm
người, một tổ chức.
- Quản lý là một nghệ thuật đạt được mục tiêu đã đề ra thông qua việc điều
khiển, phối hợp, hướng dẫn, chỉ huy hoạt động của người khác
Tổng quát, quản lý là phương thức tốt nhất để đạt được mục tiêu chung của
một nhóm người, một tổ chức, một cơ quan, hay nói rộng hơn là một nhà
nước
hoặc, quản lý là một quá trình tác động gây ảnh hưởng của chủ thể quản lý
đến khchs thể quản lý nhằm đạt được mục tiêu chung. Quá trình tác động này
có thể được thể hiện qua sơ đồ đơn giản sau:
MÔ HÌNH VỀ QUẢN LÝ
Công
cụ
Chủ thể
quản lý
Khách
thể
Quản
Phương
pháp
Mục tiêu
Như vậy, hiệu quả quản lý phụ thuộc vào các yếu tố: chủ thể, khách thể, mục
tiêu, phương pháp và công cụ quản lý. Chủ thể quản lý có thể là một cá nhân,
một nhóm hay một tổ chức. Công cụ quản lý là phương tiện tác động của chủ
thể quản lý tới khách thể. Công cụ quản lý có thể là mệnh lệnh (ngôn ngữ hay
phi ngôn ngữ), quyết định (thông qua văn bản hoặc bằng văn bản), các văn
bản luật, chính sách chương trình, mục tiêu phương pháp có thể hiểu là cách
thức tác động của chủ thể đến khách thể. Trong quản lý hiện đại,phương pháp
quản lý được đúc kết từ nhiều lĩnh vực khác nhau của khoa học xã hội và
khoa học hành vi.
Mặt khác, quản lý được quan niệm theo hai góc độ:
- Theo góc độ chính trị - xã hội rộng lớn, quản lý được hiểu là sự kết hợp giữa
tri thức với lao động. Vận hành sự kết hợp này cần có một cơ chế quản lý phù
hợp. Cơ chế đúng, hợp lý thì xã hội phát triển, ngược lại xã hội phát triển
chậm hoặc rối ren.
- Theo góc độ hành động, quản lý được hiểu là chỉ huy, điều khiển, điều hành.
Theo C.Mác, quản lý (quản lý xã hội) là chức năng đặc biệt được sản sinh ra
từ tính chất xã hội hoá lao động. Nó có tầm quan trọng đặc biệt, vì mọi sự
phát triển của xã hội đều thông qua hoạt động của con người và thông qua
quản lý con người điều khiển con người. Người viết: “ bất kỳ một lao động xã
hội hay một cộng đồng nào được tiến hành trên qui mô tương đối lớn cũng
đều có sự quản lý ”
Từ cơ sở lý luận trên, có thể định nghĩa: Quản lý là sự tác động của con người
để hướng đến mục đích, đúng ý chí và phù hợp với quy luật khách quan.
Quản lý được dùng rộng rãi cho cả quản lý hành chính nhà nước, quản lý kinh
tế - kỹ thuật, quản lý sản xuất và kinh doanh, văn hoá xã hội an ninh, quốc
phòng, nội vụ, ngoại giao Quản lý là một yếu tố hết sức quan trọng, không
thể thiếu được trong đời sống xã hội. Xã hội phát triển càng cao, vai trò của
quản lý càng lớn và nội dung càng phức tạp.
2. Nhà quản lý:
a. Nhà quản lý là ai ?
Có một nhà khoa học nói rằng: “Nhà máy, thiết bị, vật tư và con người không
giúp được gì cho công việc kinh doanh cũng như máy bay, xe tăng, tàu chiến
và binh lính không tạo ra được một lực lượng quân sự hùng hậu, nếu không
có một yếu tố quan trọng không thể thiếu được: Dó là những nhà quản lý có
hiệu quả” . Thực tế hoạt động của các tổ chức đã cho thấy người quản lý là
một trong những yếu tố quan trọng bậc nhất quyết định sự thắng bại của một
tổ chức.
Người quản lý là người có trách nhiệm đối việc đạt được mục tiêu của tổ chức
thông qua việc sử dungj một cách có hiệu lực và hiệu quả các nguồn lực của
tổ chức. Các nguồn lực của tổ chức gồm: nguồn nhân lực, tài chính, vật chất
và thông tin.
b. Nhà quản lý và nhà lãnh đạo không phải lúc nào cũng là một:
Nhiều người cho rằng quản lý và lãnh đạo là những khái niệm đồng nghĩa.
Trong khi đó cũng có rất nhiều tranh luận về sự khác nhau căn bản giữa hai
khái niệm này.
- Các nhà quản lý thường có xu hướng xem công việc là một quá trình tạo khả
năng lôi cuốn sự kết hợp của con người và ý tưởng để thiết lập ra các chiến
lược và ra các quyết định. Các nhà quản lý quan hệ với mọi người dựa trên
vai trò mà họ đóng góp trong một chuỗi các sự kiện hoặc trong tiến trình ra
quyết định.
- Các nhà lãnh đạo thường làm việc ở những vị trí có sự mạo hiểm cao hơn,
họ có xu hướng khám phá mạo hiểm, nhất là khi xuất hiện cơ hội. Các nhà
lãnh đạo quan tâm đến ý tưởng và họ quan hệ với mọi người theo trực giác và
sự đồng cảm.
Như vậy, không phải là một nhà lãnh đạo nào cũng là nhà quản lý và ngược
lại, không phải nhà quản lý nào cũng có vai trò lãnh đạo. Trong tổ chức nào
cũng có thể có sự tồn tại vai trò lãnh đạo chính thức của các nhà quản lý hoặc
không chính thức (của các cá nhân không phải là những nhà quản lý như các
thủ lĩnh nhóm, những người có uy tín về phẩm chất và năng lực chuyên
môn ), trong khi không thể có sự quản lý không chính thức, vì tất cả các nhà
quản lý đều được trao quyền lực (quyền lực địa vị) để thi hành chức năng
quản lý, bất kể họ có thể hiện được vai trò lãnh đạo của mình không. ở nước
ta, trong một thời gian dài trước đây, có nơi, có lúc trong các hoàn cảnh nhất
định đã có sự nhầm lẫn chức năng và nhiệm vụ giữa quản lý và lanhx đạo, vai
trò lãnh đạo của cá nhân và của tổ chức cũng chưa được phân biệt rành mạch.
3. Công việc của nhà quản lý:
Với tư cách là yếu tố quan trọng không thể thiếu được trong việc duy trì và
phát triển của một tổ chức, người quản lý phải thực hiện bốn nhóm chức năng
sau:
- Lập kế hoạch: Là khởi điểm của một quá trình quản lý. Để thành công các tổ
chức cần phải lập kế hoạch. Các thành viên trong tổ chức cần có mục tiêu và
kế hoạch để đạt được mục tiêu đó. Lập kế hoạch là quá trình vạch ra các mục
tiêu và quyết định phương thức đạt được mục tiêu. khả năng thực hiện chức
năng lập kế hoạch dựa trên các kỹ năng nhận thức và ra quyết định của
nguươì quản lý.
- Tổ chức: Một nhà quản lý cũng phải biết thiết kế và phát triển một hệ thống
tổ chức để thực hiện các kế hoạch. Tổ chức là một quá trình phâncông và phối
hợp các nhiệm vụ và nguồn lực để đạt được các mục tiêu đã được vạch ra.
Nhà quản lý là người phân bổ và sắp xếp các nguồn lực. Một phần quan trọng
trong việc phối hợp các nguồn nhân lực là phân công các công việc và nhiệm
vụ khác nhau cho các thành viên trong tổ chức.
- Hướng dẫn, lãnh đạo: Người quản lý phải làm việc với các nhân viên, xem
họ thực hiện các nhiệm vụ của mình hàng ngày như thế nào. Các nhà quản lý
phải có khả năng truyền đạt và thuyết phục về các mục tiêu cho nhân viên và
thúc đaảy cho đạt được các mục tiêu bằng nhiều biện pháp khác nhau.
- Kiểm tra: Là một quá trình thiết lập và thực hiện các cơ chế thích hợp để
đảm bảo đạt được các mục tiêu của tổ chức. Một phần quan trọng của kiểm
tra là đánh giá sự tiến bộ của tiến trình thực thi và điều chỉnh khi cần thiết.
Khả năng kiểm tra của nhà quản lý dựa trên các kỹ năng nhận thức, ra quyết
định, quan hệ con người và giao tiếp.
4. Nhà quản lý là một nghề:
Hiện nay trong các doanh nghiệp, số nhà quản lý có trình độ chuyên môn kỹ
thuật, hiểu biết về quản lý kinh tế chiếm tỷ lệ ngày càng tăng và họ đã phát
huy tác dụng trong thực tiẽen công tác.ở mức độ khác nhau, nhưng các nhà
quản lý thành đạt đề là những người nắm được nghề và biết cách hành nghề.
Nhà quản lý đòi hỏi phải có đào tạo cơ bản. Theo quan niệm này nhà quản lý
là người điều hành doanh nghiệp, và bảo đảm kinh doanh có hiệu quả. Vì nhà
quản lý luôn luôn tác động vào tập thể người dưới quyền, do đó nhà quản lý
phải có kiến thức vận dụng các môn khoa học, có phương pháp và nghệ thuật
quản lý, phải nắm bắt được thông tin và xử lý thông tin để đạt mục tiêu.
II. Những đòi hỏi đối với nhà quản lý doanh nghiệp :
1. Nhà quản lý cần có những kỹ năng gì :
Để thực hiện các chức năng quản lý và các vai trò xã hội khác nhau trong tổ
chức, các nhóm kỹ năng chủ yếu cần thiết cho công việc của người quản lý là:
Các kỹ năng về kỹ thuật, các kỹ năng về con người và giao tiếp, các kỹ năng
liên quan đến nhận thức và ra quyết định.
a. Các kỹ năng kỹ thuật: Là khả năng sử dụng các phương pháp và kỹ thuật để
thực thi một nhiệm vụ.
b. Các kỹ năng về con người và giao tiếp: Là khả năng làm việc với mọi người
trong các nhóm công tác. Đó là khả năng hợp tác, tham gia vào công việc cụ
thể, là khả năng sáng tạo ra một môi trường trong đó mọi người cảm thấy an
toàn và không ngần ngại bôcj bạch ý kiến của mình. Không có các kỹ năng về
con người và giao tiếp không thể trở thành một nhà quản lý giỏi được.
c. Các kỹ năng nhận thức và ra quyết định: Là khả năng hiểu được các ý tưởng
trừu tượng, là khả năng thấy được bức tranh khái quát và những nhân tố chính
cũng như các mối quan hệ giữa chúng trong mỗi hoàn cảnh và lựa chọn được
những biện pháp thay thế để giải quyết các vấn đề.
Thông thường các nhà quản lý được phân thành các cấp khác nhau thích ứng
với vai trò và phạm vi tham gia vào các khâu của quá trình quản lý. Đó là các
nhà quản lý cácp cao, các nhà quản lý cấp trung gian và các nhà quản lý cấp
tác nghiệp.
Các nhà quản lý cấp cao liên quan trực tiếp đến việc ban hành các quyết định
lớn ảnh hưởng đến toàn bộ tổ chức và các nguồn lực của nó. Trong khi đó các
nhà quản lý cấp trung gian triển khai các quyết định xuống cấp dưới. Còn cấp
tác nghiệp trực tiếp điều hành đến việc ban hành việc thực thi của nhân viên.
Vì vậy, yêu cầu về mức độ của ba nhóm kỹ năng trên đối với cấp quản lý
cũng khác nhau. Mô hình đơn giản sau sẽ mô tả được phần nào sự khác nhau
này:
SƠ ĐỒ VỀ NHỮNG KỸ NĂNG CẦN THIẾT
ĐỐI VỚI TỪNG CẤP QUẢN LÝ
Các kỹ năng về nhận thức cấp cao
Các kỹ năng về kỹ thuật cấp tác nghiệp
2. Người quản lý cần có những phẩm chất , cá tính gì ?
Bên cạnh những kỹ năng cần thiết , người quản lý hiệu quả còn phải hội tụ
đủu những phẩm chất và yếu tố sau: Ước muốn làm quản lý, khả năng quan
hệ và sự cảm thông, thẳng thắn và trung thực, kinh nghiệm thực tế.
a. Ước muốn làm quản lý : Một người muốn làm một công việc gì đó thành
công thì trước hết phải có ước muốn mãnh liệt về công việc đó. Người quản
lý muốn làm tốt công việc quản lý cũng phải ước muốn mãnh liệt được gây
ảnh hưởng tích cực đến những người khác, muốn hướng những nỗ lực cá
Các kỹ năng về con người
nhân trong tổ chức đến những mục tiêu chung. Bên cạnh việc được thúc đẩy
bởi mong muốn đáp ứng những nhu cầu cá nhân như lương bổng cao, được
tôn trọng, được thể hiện,người làm công tác quản lý còn phải có mong muốn
được cống hiến,chia sẻ bằng việc tạo điều kiện thuận lợi cho tất cả những
thành viên khác trong tổ chức cùng có cơ hội thể hiện và phát triển, hợp tác
với nhau để đạt được mục tiêu chung của tổ chức.
b. Khả năng quan hệ và sự cảm thông : Người quản lý trong hoạt động thực
hiện các chức năng của mình luôn luôn phải đặt mình trong một mạng lưới
các mối quan hệ trên-dưới, ngang -dọc với cấp trên, cấp dưới, với đồng
nghiệp ngang nhau và các cơ quan, tổ chức bên ngoài. Vì vậy, khả năng hiểu
và đoán trước được suy nghĩ của người khác là một yếu tố vô cùng then chốt
dẫn đến sự thành công của một nhà quản lý. Trong các tổ chức, bên cạnh
những mối quan hệ chính thức giữa các bộ phận chức năng, xu hướng hình
thành tự nhiên các mối liên hệ không chính thức có ảnh hưởng không nhỏ đến
việc đạt được mục tiêu của tổ chức. Vì thế người quản lý phải nhạy cảm, hiểu
được nguyên nhân hình thành các mối quan hệ không chính thức, phát huy
tính tích cực của chúng và hướng chúng vào những mục tiêu chung của tổ
chức.
c. Chính trực và trung thực : Người quản lý cần phải có quyền uy. Quyền lực
là công cụ của nhà quản lý, nó được tạo ra bởi vị trí công việc của người quản
lý, song cái uy của người quản lý lại được hình thành bởi những gì mà địa vị
không mang lại, đó chính là năng lực, là phẩm chất đạo đức của bản thân nhà
quản lý. Một trong những phẩm chất cần thiết đócủa người làm công tác quản
lý là tính chính trực. Tính chính trực của người quản lý bao gồm sự trung thực
trong các vấn đề có liên quan đến tiền bạc và vật chất, đến quan hệ với cấp
trên, cấp dưới và đồng nghiệp. Người quản lý chính trực là người luôn luôn:
- Cố gắng cung cấp đầy đủ thông tin cho cấp trên và cấp dưới
- Trung thành với toàn bộ sự thật ở mọi nơi, mọi lúc
- Mạnh mẽ và quyết đoán khi cần thiết
- Hành động phù hợp với các chuẩn mực đạo đức
d. Kinh nghiệm thực tế: Là một trong những yếu tố quan trọng của người quản
lý, giúp người quản lý tự tin hơn trong công việc quản lý của mình
3. Trách nhiệm xã hội của nhà quản lý:
- Người quản lý có trách nhiệm xã hội đối với bản thân hành vi của mình với
tư cách là thành viên cuả một tổ chức
- Đối với các quyết định quản lý với tư cách là nhà quản lý
- Đối với công việc hướng dẫn, kiểm tra các hành vi của các thành viên trong
tổ chức phù hợp với khả năng của họ và mục tiêu cuả tổ chức
- Đối với việc làm cho tổ chức do mình phụ trách thực hiện tốt bổn phận và sứ
mệnh mà xã hội giao cho.
4. Nhà quản lý tương lai :
- Nhà quản lý là người quản lý điều hành doanh nghiệp sẵn có và bảo đảm
kinh doanh có hiệu quả. Vì nhà quản lý luôn luôn tác động vào tập thể người
dưới quyền, do đó nhà quản lý phải có kiến thức vận dụng các môn khoa học,
có phương pháp và nghệ thuật quản lý, phải nắm bắt được thông tin và xử lý
thông tin để đạt mục tiêu.
- Nhà quản lý không chỉ là người lao động quản lý lao động sáng tạo, lao
động chất xám, mà nhà quản lý phải có kiến thức về công nghệ, khoa học, về
giao tiếp xã hội, phải sử dụng ngoại ngữ, kiến thức tâm lý, kinh tế, kỹ thuật,
tổng hợp những tri thức của cuộc sống. Do đó nhà quản lý phải biết phân
quyền, biết giao việc cho cấp dưới và tạo điều kiện cho họ hoàn thành nhiệm
vụ để nhà quản lý tập trung vào giải quyết các công cụ chủ yếu.
- Nhà quản lý là nhà quản trị kinh doanh. Sự biểu hiện trình độ quản lý của
nhà quản lý là tài năng, kinh nghiệm và sự khéo léo vận dụng kiến thức vào tổ
chức thực hiện các công việc thực tiễn, vào khai thác khả năng của người lao
động. Nhà quản lý phải biết sắp xếp công việc hợp lý, biết khên chê chính
xác, biết cất nhắc, đề bạt, khen thưởng và xa thải người dưới quyền, có khả
năng tổ chức và quản lý, biết thu hút và sử dụng nhân tài, biết tạo động lực
mạnh mẽ cho mọi người trong doanh nghiệp, suy nghĩ táo bạo, đổi mới, tính
quyết đoán, ứng phó nhanh nhạy với những thay đổi thường xuyên của thị
trường.
- Nhà quản lý là nhà sư phạm, biết viết và truyền đạt ý kiến chính xác, biết
thuyết phục, đồng thời cũng là nhà quản lý con người, bảo đảm thu nhập cho
người lao động, phát triển nghề nghiệp và tạo điều kiện cho họ tiến bộ. Nhà
quản lý không chỉ biết khơi dậy khát vọng, ý chí và khả năng làm giàu cho
doanh nghiệp, cho xã hội và cho cá nhân theo pháp luật mà còn phải biết kiên
định trong mọi tình huống, khắc phục khó khăn, thắng không kiêu, bại không
nản, biết lường trước mọi hậu quả, gương mẫu, có đạo đức kinh doanh, giữ
chữ tín với khách hàng, tôn trọng cấp trên, nhiệt tình với bạn bè và đồng
nghiệp, độ lượng bao dung với cấp dưới. Nhà quản lý còn phải biết sống công
bằng, đãi ngộ đúng mức, biết lắng nghe, quyết đoán mà không độc đoán, sáng
tạo mà không tuỳ tiện, ngẫu hứng mà không tuỳ hứng. Trong đời sống cá
nhân luôn luôn trong sáng và lành mạnh.
- Nhà quản lý còn là nhà hoạt động xã hội, biết tuân thủ, hiểu thấu đáo những
vấn đề luật pháp nhất là luật kinh tế, các chính sách, chế độ quy định của nhà
nước có liên quan đến chức năng, nhiệm vụ hoạt động sản xuất - kinh doanh
của doanh nghiệp. Biết tham gia vào công tác xã hội .
III. Các phương pháp đào tạo và phát triển nhà quản lý:
1. Yêu cầu cấp thiết đào tạo nhà quản lý:
Qúa trình chuyển sng kinh tế thị trường và thực hiện công nghiệp hoá, hiện
đại hoá là bước chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh
doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xã hội. Yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp
hoá và hiện đại hoá đặt ra nhiệm vụ to lớn với công tác cán bộ nói chung,
trong đó có công tác quy hoạch đào tạo cán bộ. Thực tế khi nói tới vấn đề
cán bộ, người ta dễ dàng thống nhất với nhau rằng con người vừa là chủ thể
vừa là đối tượng phục vụ của mọi hoạt động kinh tế, xã hội. Chúng ta, có thể
khẳng định con người là nhân tố quyết định sự phát triển xã hội. Tuy nhiên
nhiều năm trước đây, người ta vẫn đi tìm nguồn lực cho sự phát triển kinh tế -
xã hội ở sự phong phú về tài nguyên thiên nhiên hoặc ở những yếu tố công
nghệ thuần tuý. Chính kinh nghiệm lịch sử cho thấy, những quốc gia phát
triển kinh tế nhanh nhất trong thời kỳ gần đây là những quốc gia nghèo về taì
nguyên thiên nhiên như hàn quốc, nhật bản Những công trình nghiên cứu
mới nhất đã đi tới kết luận, con người là nguồn vốn lớn nhất, quý nhất của xã
hội. Một nhà kinh tế học phương tây đã nhận xét: Tài sản lớn nhất của các
công ty hiện nay, không phải là các lâu đài, công xưởng mà nó nằm trong vỏ
não của các nhân viên, của các nhà quản lý Như vậy nhân tố con người, đặc
biệt là tri thức của họ đã trở thành nguồn lực quan trọng nhất. Trong quá trình
chuyển sang nền kinh tế thị trường, thực hiện công nghiệp hoá hiện đại hoá và
mở cửa nền kinh tế điều kiện tiên quyết là phải có đội ngũ những nhà quản lý
có trình độ cao, có bản lĩnh vững vàng trước những thời cơ, thách thức trong
phát triển.
2. Các phương pháp đào tạo các nhà quản lý:
Dù cho chúng ta có lý luận đi chăng nữa, tương lai của công ty xí nghiệp chủ
yếu nằm trong tay các nhà quản lý. Kinh nghiệm tại việy nam và trên thế giới
đều cho thấy rằng vai trò của cấp quản trị rất quan trọng, và là nhân tố quyết
định sự thành bại của công ty. Chúng ta đã từng chứng kiến đã có nhiều công
ty ở việt nam, cũng vẫn số công nhân đó, cũng vẫn cơ chế của nhà nước đó,
nhưng một vị giám đốc mới đổi về có trình độ, có khả năng nhạy bén và năng
động, đã làm cho công ty đó khởi sắc và phát triển nhanh. Dĩ nhiên chúng ta
không phủ nhận vi trò của công nhân, bởi vì không có họ, dù cho ban giám
đốc có giỏi đến đâu, công ty cũng chẳng làm gì được. Nhưng ngược lại dù
công nhân có giỏi tay nghề đến đâu, nếu không có ban lãnh đạo giỏi, công ty
chẳng chóng thì chày sẽ bị phá sản. như vậy phát triển những nhà quản lý là
một nhu cầu thiết yếu của mọi công ty.
Sau đây là mộy số phương pháp đào tạo phát triển các nhà quản lý :
a. Phương pháp dạy kèm:
đây là phương pháp đào tạo tại chỗ để phát triển cấp quản trị trên cơ sở một
kèm một. Một số công ty lập ra các chức vụ phụ tá hay trợ lý cũng nhằm mục
đích này. Để đạt được kết quả, các cấp quản trị dạy kèm này phải có một kiến
thức toàn diện về công việc liên hệ tới các mục tiêu của cơ quan. Họ phải là
những người mong muốn chia xẻ thông tin với cấp dưới va sẵn lòng mất thời
gian đáng kẻe để thực hiện công việc huấn luyện này. Mối quan hệ này phải
được dựa trên lòng tin tưởng lẫn nhau.
b. Các trò chơi kinh doanh:
Các trò chơi kinh doanh hay còn được gọi là các trò chơi quản trị là sự mô
phỏng các tình huống kinh doanh hiện hành. Các cuộc mô phỏng này cố gắng
lập lại các yếu tố được lựa chọn theo một tình huống đặc biệt nào đó, và sau
đó những người tham dự trò chơi đó.
c. Điển quản trị:
Điển quản trị hay nghiên cứu các trường hợp điển hình hoặc điển quản trị hay
còn được gọi là trường hợp điển hình là một phương pháp đào tạo sử dụng
các vấn đề kinh doanh nan giải đã được mô phỏng theo thực tée để cho các
học viên giải quyết.
d. Phương pháp hội nghị:
Phương pháp hội nghị hay còn được gọi là phương pháp thảo luận là một
phương pháp huấn luyện được sử dụng rộng rãi, trong đó các thành viên có
chung một mục đích thảo luận và cố gắng giải quyết vấn đề. Thông thường
người điều khiển là một cấp quản trị nào đó. vị này có nhiệm vụ giữ cho cuộc
thảo luận trôi chảy và tránh để cho một vài người nào đó ra ngoaì đề. Khi thảo
luận, vị này lắng nghe và cho phép các thành viên phát biểu giải quyết vấn đề.
Khi họ không giải quyết được vấn đề, vị này sẽ đóng vai trò như một người
điều khiển sinh hoạt học tập. ưu điểm của phương pháp này là các thành viên
tham gia không nhận thấy mình đang được huấn luyện. Họ đang giải quyết
các vấn đề khó khăn trong các hoạt động hàng ngày của họ.
e. Phương pháp mô hình ứng xử:
Phương pháp mô hình ứng xử sử dụng các băng video được soạn thảo đặc biệt
để minh hoạ xem các nhà quản trị đã hành xử thế nào trong các tình huống
khác nhau và phát triển các kỹ năng giao tiếp. đặc tính quan trọng nhất cuă
các nhà quản trị đạt được thành tích cao là họ đặt các tiêu chuẩn cho chính họ
và cho người khác. đây là điểm mấu chốt của mô hình ứng xử.
f. Kỹ thuật nghe nhìn:
Ngày nay nhiều công ty sử dụng các kỹ thuật nghe nhìn như phim ảnh, truyền
hình khép kín, băng nghe, băng nghe nhìn trong các chương trình đào tạo
huấn luyện. Phương pháp này tốn kém hơn các bài giảng chính qui, nhưng nó
có nhiều ưu điểm hơn hẳn vì nó có hình ảnh minh hoạ, có thể đi chiếu lại, có
thể ngưng lại để giải thích thêm.
g. Thực tập sinh:
Theo quan điểm nhà quản trị ( ban giám đốc ), chương trình thực tập sinh là
một phương tiện rất tốt để quan sát một nhân viên có tiềm năng trong lúc làm
việc
h. Phương pháp đào tạo tại bàn giấy :
Hay đào tạo xử lý công văn giấy tờ cũng là một phương pháp mô phỏng trong
đó thành viên được cấp trên giao cho một số hồ sơ giấy tờ kinh doanhnhư các
bản thông tư nội bộ hoặc các bản ghi nhớ, các bản tường trình báo cáo và các
tin tức do các cuộc đàm thoại gởi lại. Các loại giấy tờ này là các loại hồ sơ
điển hình đưa qua bàn giấy của một quản trị gia. Các hồ sơ này không được
sắp xếp theo một thứ bậc đặc biệt nào và cần phải sắp xếp phân loại cần xử lý
khẩn cấp tới loại cần xử lý bình thường. Học viên được yêu cầu xem các
thông tin nêu trên và sắp xếp theo thứ tự ưu tiên. đây là một phương pháp hữu
hiệu giúp cho nhà quản trị giải quyết vấn đề có tính cách thủ tục một cách
nhanh gọn đồng thời giúp cho nhà quản trị biết cách làm việc một cách khoa
học.
i. phương pháp đóng kịch:
Đây là một kỹ thuật đưa ra một vấn đề nan giải nào đó - có thật hay do tưởng
tượng - rồi sau đó vấn đề được phân vai một cách tự nhiên. các thành viên có
thể đóng một vai trò nào đó trong cơ cấu tổ chức trong một tình huống nhất
đinhj nào đó và sau đó nhập đúng vai trò đó.
j. Phương pháp luân phiên công tác:
Luân phiên công tác hay công việc là phương pháp chuyển công nhân viên.
hoặc cấp quản trị từ công tác này sang công tác khác nhằm mục đích cung cấp
cho họ những kinh nghiệm rộng hơn.
k. Giảng dạy theo thứ tự từng chương trình:
Giảng dạy theo thứ tự từng chương trình hay còn được gọi là học theo từng
chương trình. Phương pháp này thì công cụ giảng dạy là một cuốn giáo khoa,
hoặc là một loại máy móc nào đó, gồm 3 chức năng sau:
- Đưa ra các câu hỏi, các sự kiện
- Cho phép học viên trả lời
- Thông tin phản hồi.
l. Giảng dạy nhờ máy tính hỗ trợ :
Giảng dạy nhờ máy tính hỗ trợ là phương pháp mà học viên học ngay trên
máy vi tính và được giải đáp ngay trên máy vi tính. Nhược điểm của phương
pháp này là quá tốn kém vì xây dựng một chương trình đào tạo CAI này rất
tốn kếm.
m. Bài thuyết trình trong lớp:
Các bài thuyết trình trong hội trường hay lớp học cũng trang bị nhiều kiến
thức cho các cấp quản trị. Tuy nhiên phương pháp này chỉ thích hợp khi
thuyết trình viên cung cấp nhiều thông tin mới.
n. Các phương pháp khác:
Ngoài các phương pháp trên, công ty có thể khuyến khích các cấp quản trị
học các chương trình hàm thụ, các khoá đặc biệt mở tại các trường đại học
dưới nhiều hình thức.
KẾT LUẬN
Chúng ta đang sống trong một thời đại mà nhịp độ thay đổi diễn ra với
tốc độ chóng mặt - đó là thời đại bùng nổ công nghệ, bùng nổ thông tin.
Những bùng nổ này đã tác động đến dây chuyền sản xuất, đến cung cách quản
lý, đến nếp sống và suy nghĩ của mọi người trong doanh nghiệp. Và cũng
chính sự bùng nổ này mà các cấp lãnh đạo thấy cần phải trang bị cho mọi
người và tự đào tạo cho mình các kiến thức và kỹ năng mới để theo kịp với sự
thay đổi. Nhu cầu đào tạo và phát triển trở nên cấp bách hơn bao giờ hết. Vì
vậy đào tạo và phát triển các nhà quản lý là nhiệm vụ không thể thiếu được
trong hệ thống doanh nghiệp, đó chính là giải pháp quan trọng tạo nên động
lực mới để theo đuổi kịp với thời đại công nghiệp hoá hiện đai hoá đất nước.
Là một sinh viên của trường HUBM và sau này cũng trở thành một nhà quản
lý tương lai, em có nhận xét rằng là: Một doanh nghiệp muốn phát triển tốt,
đứng vững được trên thương trường thì cần phải có một đội ngũ các cấp quản
trị, đội ngũ công nhân được đào tạo tốt, có tay nhề , có sự hiểu biết khá rộng
về vấn đề kinh doanh. Đặc biệt một nhà quản lý phải có trình độ (về tất cả
mọi mặt), muốn đạt được tất cả điều đó, một cách hữu hiệu nhất là phải được
đào tạo. Không những nhà quản lý phải được đào tạo tốt mà còn cả đội ngũ
nhân viên và công nhân cũng phải được đào tạo. vì vậy muốn một nhà quản lý
giỏi thì cần phải được đào tạo.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét