Thứ Hai, 20 tháng 1, 2014

Việt Nam với toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế.doc.DOC

Lời nói đầu
Toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế đã và đang trở thành một trong
những xu thế chủ yếu của quan hệ kinh tế quốc tế hiện đại. Những phát triển
mạnh mẽ về khoa học và công nghệ đã góp phần đẩy nhanh quá trình quốc tế
hoá nền kinh tế thế giới. Thơng mại thế giới đã tăng lên nhanh chóng. Với sự ra
đời của các thể chế toàn cầu và khu vực nh WTO (Tổ chức thơng mại thế giới),
EU (Cộng đồng châu Âu), APEC (Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu á - Thái Bình
Dơng), NAFTA (Hiệp định mậu dịch tự do Bắc Mỹ) , thế giới ngày nay đang
sống trong quá trình toàn cầu hoá mạnh mẽ. Quá trình này thể hiện không chỉ
trong lĩnh vực thơng mại mà cả trong các lĩnh vực sản xuất, dịch vụ, tài chính,
đầu t cũng nh các lĩnh vực văn hoá, xã hội, môi trờng với các hình thức đa dạng
và mức độ khác nhau. Toàn cầu hoá kinh tế tạo ra những quan hệ gắn bó, sự tuỳ
thuộc lẫn nhau và những tác động qua lại hết sức nhanh nhạy giữa các nền kinh
tế. Thông qua quá trình tự do hoá, toàn cầu hoá tạo ra những lợi thế mới thúc
đẩy lực lợng sản xuất phát triển, đẩy mạnh giao lu kinh tế giữa các nớc, góp
phần khai thác tối đa lợi thế so sánh của các nớc tham gia vào nền kinh tế toàn
cầu.
Quá trình toàn cầu hoá là quá trình vừa hợp tác vừa đấu tranh giữa các
quốc gia, không chỉ giữa nớc giàu và nớc nghèo mà còn ngay cả giữa các nớc
giàu với nhau nhằm giành vị trí có lợi nhất cho mình trong phân công lao động
và quan hệ kinh tế quốc tế. Toàn cầu hoá với mặt trái của nó là cuộc cạnh tranh
gay gắt trên quy mô thế giới đã và đang làm nảy sinh những vấn đề xã hội nh
thất nghiệp gia tăng, phân hoá giàu nghèo ngày một sâu thêm, đồng thời toàn
cầu hoá cũng mở đờng cho sự du nhập những văn hoá và lối sống không phù
hợp truyền thống và bản sắc dân tộc của mỗi quốc gia
Quá trình toàn cầu hoá đang thúc đẩy mạnh mẽ sự hội nhập của các nớc
vào nền kinh tế thế giới và khu vực. Hoà trong bối cảnh đó cùng với phơng
châm "đa dạng hoá, đa phơng hoá quan hệ" và "là bạn với tất cả các nớc
trong cộng đồng thế giới phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển", Việt
Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với hơn 160 nớc và hầu hết các tổ chức
quốc tế và khu vực quan trọng. Với việc gia nhập ASEAN (7 - 1995), ký Hiệp
định khung về hợp tác kinh tế với EU (7 - 1995), tham gia APEC (11- 1998) và
đang chuẩn bị tích cực cho các cuộc đàm phán gia nhập Tổ chức thơng mại thế
giới (WTO). Việt Nam đã và đang từng bớc vững chắc hội nhập sâu rộng vào
nền kinh tế khu vực và thế giới.
1
Hơn lúc nào hết, quá trình toàn cầu hoá không chỉ là sự quan tâm của mỗi
quốc gia, mỗi tổ chức mà còn đối với mỗi cá nhân chúng ta, có rất nhiều các bài
viết của các nhà nghiên cứu và các chuyên gia đầu ngành trong và ngoài nớc đề
cập đến các khía cạnh khác nhau của quá trình toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế
quốc tế. Đây là vấn đề rộng lớn, phức tạp và có nhiều biến động; có cả những
nhận thức và quan điểm khác nhau, thậm chí đối lập nhau.
Qua việc tham khảo tài liệu cùng với những kiến thức đã đợc lĩnh hội trong
nhà trờng, em đã lựa chọn đề tài "Toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế: xu thế,
thời cơ và thách thức".
Nội dung của bài viết đợc trình bày trong ba phần:
Phần 1: Nhận thức về toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế
Phần 2: Toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế: thời cơ và thách thức.
Phần 3: Việt Nam với toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế.
2
PHần 1: Nhận thức về toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế
1. Toàn cầu hoá
Toàn cầu hoá. Nó đề cập tới một thế giới đang xích lại gần nhau hơn, tới
việc vợt qua những khoảng cách và sự khác biệt, tới việc mọi ngời cùng chia sẻ
hứa hẹn của tơng lai.
Toàn cầu hoá là gì, và tại sao điều đó gây ra nhiều tranh cãi? Thông thờng
đề tài này đợc đa ra liên quan đến thơng mại quốc tế, nhng nó đang vợt qua
ngoài vấn đề đó. Toàn cầu hoá thực ra có nghĩa là thay đổi cách thức mà mọi
việc làm trong nớc. Nhng thay đổi không phải lúc nào cũng là điều tốt. Giờ đây
đối với một số ngời, từ này hiện thân cho thị trờng tài chính tàn phá các nền
kinh tế, các đối thủ cạnh tranh nớc ngoài nghiền nát các doanh nghiệp trong n-
ớc, các quan chức hành chính xa vời đa ra các quyết định làm đảo lộn xã hội.
Có ngời cho rằng hiện nay đã nhất thể hoá kinh tế thế giới (toàn cầu) rồi.
Cách nói này thiếu chính xác. Chỉ khi toàn bộ các yếu tố sản xuất (nguồn vốn,
hàng hoá, nhân viên, dịch vụ lao động) đều đợc lu thông tự do trong quy tắc
thống nhất của toàn cầu, mới có thể gọi là "nhất thể hoá kinh tế toàn cầu".
Trong tình trạng các nớc vẫn tồn tại lợi ích khác nhau thì khi thực hiện "nhất
thể hoá kinh tế thế giới" nên chúng ta chỉ có thể sử dụng những khái niệm tơng
đối chuẩn xác nh "toàn cầu hoá kinh tế" hay "hợp tác kinh tế toàn cầu". Cần
nhận thấy rằng "Toàn cầu hoá" không có chữ "kinh tế" đi kèm thì hàm nghĩa
của nó rộng hơn nhiều bao gồm mọi vấn đề có liên quan tới hợp tác toàn cầu.
Vì thế lại nảy sinh quan niệm cho rằng "toàn cầu hoá" sẽ trở thành một loại
hình thái ý thức và văn hoá thống nhất toàn cầu. Chúng ta không phản đối, thậm
chí còn thúc đẩy trao đổi hợp tác giữa các quốc gia, mong muốn học tập và thu
hút mọi tinh hoa văn hoá có lợi của các nớc. Nhng chúng ta không thể nhập
khẩu hình thái ý thức của nớc khác, càng không đợc Tây hoá hoàn toàn. Vì vậy,
phải sử dụng thận trọng chữ "toàn cầu hoá", chúng ta cũng phải tính toán rằng
lĩnh vực nào có thể toàn cầu hoá, lĩnh vực nào phải hợp tác có lựa chọn thậm chí
không hợp tác.
Vậy toàn cầu hoá kinh tế là dới sự tác động của quốc tế hoá sản xuất và
cách mạng khoa học kỹ thuật không ngừng phát triển, tính dựa dẫm vào nhau,
bổ sung cho nhau của nền kinh tế các nớc ngày càng gia tăng, yếu tố cản trở
sản xuất đang ngày càng mất đi bởi sự tự do lu thông toàn cầu.
Mặc dù vậy, toàn cầu hoá kinh tế vẫn ở trong giai đoạn đầu của nó. Lĩnh
vực then chốt hợp tác toàn cầu hoá kinh tế vẫn chỉ là mậu dịch, tự do lu thông
nguồn vốn và sức lao động còn là vấn đề trong tơng lai.
3
2. Nhận thức chung về hội nhập
Trong bối cảnh hiện nay, ngời ta đều thấy rằng, nhận thức về hội nhập vẫn
là một vấn đề thời sự. Các quốc gia đều khẳng định cần xây dựng nhận thức
thống nhất trong nội bộ rằng hội nhập là cần thiết, phù hợp với xu thế chung,
nhất là tham gia WTO sẽ tạo thuận lợi cho sự phát triển của đất nớc.
- Hội nhập là một quá trình tất yếu, một xu thế bao trùm mà trọng tâm là
mở cửa kinh tế, tạo điều kiện kết hợp tốt nhất nguồn lực trong nớc và quốc tế,
mở rộng không gian để phát triển và chiếm lĩnh vị trí phù hợp nhất có thể trong
quan hệ kinh tế quốc tế. Nh vậy hội nhập vừa là đòi hỏi khách quan vừa là nhu
cầu nội tại của sự phát triển kinh tế mỗi nớc. Cần phải hội nhập sớm, nhất là
tham gia WTO, để tranh thủ các cơ hội kinh doanh, để có tiếng nói trong quá
trình hình thành luật lệ kinh tế, thơng mại quốc tế có lợi cho mình. Hội nhập
muộn sẽ phải chấp nhận nhiều quy định đã rồi, nghĩa vụ phải thực hiện sẽ lớn
hơn và thời gian chuyển tiếp ngắn hơn.
- Không thể né tránh việc hội nhập mà vấn đề then chốt là cần phải nhận
thức trớc, tính toán đầy đủ cái giá phải trả cho việc tổ chức và vận hành các
hiệp định quốc tế, phải đề ra đợc những chính sách, biện pháp đúng để hạn chế
trả giá ở mức thấp nhất và tranh thủ cao nhất những cơ hội để phát triển.
- Hội nhập thực chất là tham gia cạnh tranh trên quốc tế và ngay trong thị
trờng nội địa. Để hội nhập có hiệu quả, phải ra sức tăng cờng nội lực, cải cách
và điều chỉnh cơ chế, chính sách, luật lệ, tập quán kinh doanh, cơ cấu kinh tế
trong nớc để phù với "luật chơi chung" của quốc tế. Điều này không có nghĩa là
các nớc bị ép phải cải cách, mở cửa, hội nhập nhng thực ra cải cách, hội nhập là
vì sự phát triển của mình. Chính sách hội nhập phải dựa và gắn chặt với chiến l-
ợc phát triển của đất nớc, đồng thời cải cách kinh tế, hành chính phải gắn chặt
với yêu cầu của quá trình hội nhập. Cải cách trong nớc và hội nhập là "Con đ-
ờng hai chiều". Cải cách bên trong quyết định tốc độ và hiệu quả hội nhập,
đồng thời hội nhập sẽ hỗ trợ, thúc đẩy tiến trình cải cách trong nớc, qua đó nâng
cao sức cạnh tranh của nền kinh tế. Cần phải nhận thức rằng dù có hội nhập hay
không thì vẫn tiếp tục cải cách, cải cách mạnh hơn, nhanh hơn vì sự phát triển
của mình. Điều quan trọng là phải duy trì ổn định chính trị, xã hội để phát triển
kinh tế và hội nhập có hiệu quả.
- Hội nhập không phải để đợc hởng u đãi, nhân nhợng đặc biệt. Hội nhập
là mở rộng các cơ hội kinh doanh, thâm nhập thị trờng, có môi trờng pháp lý và
kinh doanh ổn định dựa trên quy chế, luật lệ của các thể chế hội nhập, không bị
phân biệt đối xử, không bị các động cơ chính tị hay những lý do khác cản trở
việc giao lu hàng hoá, dịch vụ và đầu t. Từ ổn định về thị trờng, các nớc sẽ có
điều kiện thuận lợi để xây dựng kế hoạch đầu t, sản xuất, kinh doanh ổn định
4
dựa trên quy chế, luật lệ của các thể chế hội nhập, không bị phân biệt đối xử,
không bị các động cơ chính trị hay những lý do khác cản trở việc giao lu hàng
hoá, dịch vụ và đầu t. Từ ổn định về thị trờng, các nớc sẽ có điều kiện thuận lợi
để xây dựng kế hoạch đầu t, sản xuất, kinh doanh ổn định, giải quyết việc làm
phát triển kinh tế. Ngoài ra, các nớc có thể sử dụng những luật lệ, quy định, cơ
chế giải quyết tranh chấp của các thể chế hội nhập để bảo vệ lợi ích chính đáng
của mình.
- Phải tăng cờng thông tin, tuyên truyền, giải thích để giới kinh doanh
nhận thức sâu sắc và ủng hội hội nhập, chuẩn bị thật tốt mọi mặt để chủ động
hội nhập từng bớc, tận dụng những lợi thế so sánh của mỗi nớc để cạnh tranh
chiếm lĩnh thị trờng. Đặc biệt quan tâm đến việc thông tin, giải thích cho doanh
nghiệp và nhân dân, đặc biệt các thành phần bị ảnh hởng bởi mở cửa và tự do
hoá, về lợi ích của hội nhập và tham gia WTO. Cần tham khảo và thu hút giới
doanh nghiệp tham gia xây dựng chính sách, lộ trình, các biện pháp hội nhập vì
chính họ sẽ thực hiện các cam kết và bảo đảm hiệu quả của quá trình hội nhập.
5
PHần 2: Toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế:
Thời cơ và thách thức
1. Toàn cầu hoá và những động lực.
Theo thuật ngữ kinh tế, động lực của quá trình toàn cầu hoá có thể đợc
biểu hiện thông qua 3 xu hớng chủ đạo sau đây:
- Xu hớng thứ nhất, và là xu hớng có tác động sâu sắc nhất là sự thay đổi
về khoa học - công nghệ. Khoa học và công nghệ có vai trò quyết định lợi thế
cạnh tranh và tốc độ phát triển của các quốc gia.
- Xu hớng thứ hai là việc ngày càng có nhiều Chính phủ theo đuổi chính
sách tự do hoá, mở cửa thị trờng và loại bỏ những cản trở về mặt luật lệ đối với
các hoạt động kinh tế.
- Xu hớng thứ ba là sự kết hợp của những công nghệ mới và những thị tr-
ờng tự do hơn, tạo điều kiện cho các khu vực kinh doanh ở nhiều nớc có thể
quốc tế hoá các hoạt động của mình, dệt nên một mạng lới phức tạp hơn bao
giờ hết các hoạt động liên kết với nhau trên bình diện toàn cầu.
Cả 3 xu hớng này: tiến bộ công nghệ, tự do hoá kinh tế, quốc tế hoá sản
xuất - đã làm cho các quốc gia trở nên phụ thuộc lẫn nhau hơn về mặt kinh tế,
tạo ra những cơ hội cũng nh những thách thức về kinh tế, xã hội, chính trị cha
từng có.
2. Toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế: Những lợi ích.
Toàn cầu hoá là xu hớng tất yếu của quá trình tập trung, chuyên môn hoá
sản xuất và phân công lao động quốc tế. Khi nền kinh tế thế giới phát triển
thành một thị trờng thống nhất thì không một quốc gia nào có thể đứng ngoài
tiến trình này mà có thể tồn tại và phát triển đợc.
Toàn cầu hoá và khu vực hoá đã trở thành một trong những xu thế chủ yếu
của quan hệ quốc tế hiện đại và sẽ tiếp tục phát triển mạnh trong thế kỷ tới.
Toàn cầu hoá và khu vực hoá đợc thể hiện rõ trong sự gia tăng rất nhanh trao
đổi quốc tế về hàng hoá, dịch vụ, tài chính và các yếu tố sản xuất.
Toàn cầu hoá và khu vực hoá còn đợc thể hiện qua sự hình thành và củng
cố của các tổ chức kinh tế quốc tế và khu vực.
Toàn cầu hoá và khu vực hoá đợc quyết định bởi nhiều yếu tố liên quan tới
công nghệ, thị trờng và chính sách, nổi lên là: sự cạnh tranh gia tăng trong kinh
tế thế giới thúc đẩy tìm kiếm những thị trờng có lợi nhất cho hàng xuất khẩu và
nguồn nhập khẩu rẻ nhất; những yếu tố thúc đẩy các công ty xuyên quốc gia
phân bố lại dây chuyền sản xuất, tiêu thụ, hình thành nên các mạng lới toàn cầu
và khu vực. Sự phát triển trong công nghệ thông tin, thị trờng tài chính, dịch vụ
và giao thông vận tải
Toàn cầu hoá và khu vực hoá có tác dụng hỗ trợ, bổ sung cho nhau và
cùng nhằm mục tiêu thúc đẩy trao đổi hàng hoá, dịch vụ, vốn và lao động. Liên
kết khu vực vừa củng cố quá trình toàn cầu hoá vừa giúp các nớc trong từng khu
6
vực bảo vệ lợi ích của mình. Mặt khác, toàn cầu hoá, khu vực hoá cũng làm cho
sự cạnh tranh giữa các thực thể kinh tế trở nên gay gắt cha từng có.
Toàn cầu hoá đã và đang mang lại những cơ hội to lớn cho nền kinh tế thế
giới và cho mỗi quốc gia tham gia vào quá trình hội nhập:
- Hội nhập quốc tế tạo điều kiện để phát huy lợi thế so sánh, thúc đẩy việc
tham gia vào phân công lao động quốc tế, tranh thủ đợc lợi ích của việc phân bổ
nguồn tài lực hợp lý trên bình diện quốc tế từ đó phát huy cao độ nhân tố sản
xuất hữu dụng của từng quốc gia.
- Tự do hoá luân chuyển hàng hoá, dịch vụ và vốn với việc hạ thấp hàng
rào thuế quan, đơn giản hoá trong khâu thủ tục, cắt giảm kiểm soát hành chính
sẽ góp phần giảm chi phí sản xuất, đầu t, tăng sản lợng, giảm thất nghiệp và
tăng thêm lợi ích cho ngời tiêu dùng.
- Toàn cầu hoá tạo ra nhiều cơ hội đầu t mới, tăng nhanh vòng quay vốn và
tạo điều kiện để đa dạng hoá các loại hình đầu t nhờ đó vừa nâng cao hiệu quả
vừa hạn chế rủi ro đầu t.
- Toàn cầu hoá thúc đẩy quá trình chuyển giao công nghệ, chuyển giao
vốn, kỹ năng quản lý, qua đó mở rộng địa bàn đầu t cho các nớc phát triển,
đồng thời giúp các nớc tiếp nhận đầu t có thêm nhiều cơ hội phát triển.
3. Toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế: Những thách thức.
- Sự bất ổn định của thị trờng tài chính quốc tế. Thực vậy, có sự khác biệt
cơ bản giữa t bản công nghiệp và t bản tài chính, hay nói cách khác là khác biệt
giữa đầu t trực tiếp và đầu t tài chính. Các nhà đầu t trực tiếp đã bỏ tiền đầu t
xây dựng nhà xởng thì không dễ gì một sớm một chiều có thể rút
lại vốn đầu t. Trong khi đó, các nhà đầu t tài chính có lợi thế linh hoạt hơn nhờ
tính chuyển nhợng cao của chứng khoán. Mặt khác nguồn tài chính đợc phân bố
không đồng đều, tập trung vào một số trung tâm tài chính lớn là các nớc công
nghiệp phát triển hàng đầu thế giới. Quá trình hội nhập và toàn cầu hoá càng
làm cho dòng vốn chảy mạnh hơn, dễ dàng hơn và tất nhiên rủi ro sẽ lớn hơn.
- Nguy cơ tụt hậu của một số quốc gia. Một số quốc gia tranh thủ đợc lợi
ích của hội nhập mậu dịch quốc tế và thị trờng tài chính quốc tế, phát huy đợc
lợi thế so sánh, nhờ đó thúc đẩy tăng trởng, mở rộng thơng mại, thu hẹp dần
khoảng cách với các nớc phát triển, thì một số nớc khác lại không có khả năng
hội nhập vào quá trình phát triển thơng mại, thu hút vốn đầu t và kết cục tất yếu
là sẽ bị đẩy lùi xa hơn nữa về phía sau.
- Chính sách tiền tệ - tài chính của các nớc yếu bị phụ thuộc vào chính
sách của các nớc mạnh.
- Mối đe doạ của quá trình toàn cầu hoá đó chính là xu hớng hình thành
thế độc quyền, tập trung quyền lực vào một số tập đoàn đầu sỏ quốc tế. Xu h-
ớng sát nhập đang diễn ra mạnh mẽ cha từng có trong lịch sử phát triển kinh tế
thế giới cận đại. Vậy thế thì đâu là điểm dừng của xu thế sát nhập này? Bởi lẽ
nếu xu thế sát nhập tiếp tục gia tăng chắc chắn sẽ có tác động xấu đến "thị trờng
7
cạnh tranh hoàn hảo - nhân tố đã góp phần thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế
trong suốt hàng thế kỷ qua.
- Quá trình toàn cầu hoá phát triển, khi tham gia vào các tổ chức kinh tế
quốc tế, các nớc nhất là đang phát triển phải giảm dần thuế và bỏ hàng rào phi
quan thuế, nghĩa là bỏ hàng rào mậu dịch, thì các hàng hoá nớc ngoài sẽ ồ ạt đổ
vào, bóp chết hoạt động sản xuất kinh doanh trong nớc.
- Quá trình toàn cầu hoá phát triển làm tan vỡ các hàng rào bảo hộ của các
quốc gia. Do vậy các quốc gia không chỉ chịu tác động tích cực của quá trình
này mà còn phải chịu cả những chấn động của hệ thống kinh tế toàn cầu trong
các lĩnh vực tiền tệ, tài chính, nguyên nhiên liệu Các n ớc càng yếu kém, các
chính sách kinh tế vĩ mô càng không đủ thông thoáng phù hợp với các định chế
quốc tế, tệ tham nhũng và quan liêu càng nặng, hệ thống ngân hàng - tài chính
càng lạc hậu thì càng chịu tác động nặng nề hơn.
- Quá trình toàn cầu hoá phát triển, không chỉ có các lực lợng kinh tế
tiến bộ tham gia vào quá trình này mà còn có cả các thế lực phản động, bọn
mapha, các tổ chức khủng bố Mạng l ới hoạt động của maphia hiện đang lan
khắp toàn cầu, các đờng dây buôn lậu ma tuý đã len lỏi đến cả các trờng học.
Các thế lực phản động cũng không bỏ lỡ thời cơ xâm nhập vào nớc ta phá hoại
chính sách đúng đắn là phải ngăn chặn, chống lại mọi hoạt động phá hoại. Nh-
ng không thể vì nó mà đóng cửa đất nớc hay hạn chế sự hội nhập của đất nớc
vào quá trình toàn cầu hoá.
- Quá trình toàn cầu hoá phát triển còn nảy sinh những mặt tiêu cực khác
nữa nh: sự chênh lệch về trình độ phát triển giữa các nớc giàu và nghèo có thể
tăng lên, sự xung đột giữa các nền văn hoá khác nhau có thể xảy ra, các nớc lớn
có thể bị phân rã
Song những tác động tiêu cực này có thể lớn nhỏ đến đâu, điều đó lại tuỳ
thuộc vào chính sách hội nhập quốc tế của các quốc gia. Một chính sách hội
nhập quốc tế đúng đắn và thích hợp, thì tác hại của những mặt tiêu cực này sẽ bị
hạn chế và ngợc lại.
8
Phần 3: Việt Nam với toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế
1. Tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam.
Chúng ta đi vào thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá trùng với thời điểm
trên thế giới đang diễn ra những thay đổi to lớn về chính trị và kinh tế. Hoà
bình, hợp tác để phát triển ngày càng trở thành đòi hỏi bức xúc của các dân tộc
và quốc gia trên thế giới. Các nớc đều u tiên phát triển kinh tế, cần có môi trờng
hoà bình, ổn định và thực hiện chính sách mở cửa.
Trong một thế giới ngày càng đợc toàn cầu hoá, bất cứ nớc nào muốn
không bị gạt ra ngoài dòng chảy phát triển, đều phải nỗ lực hội nhập vào xu thế
chung, điều chỉnh chính sách, giảm dần hàng rào quan thuế và dỡ bỏ hàng rào
phi quan thuế, làm cho việc trao đổi hàng hoá, luân chuyển vốn, lao động, công
nghệ và kỹ thuật trên phạm vi thế giới ngày càng thông thoáng hơn. Việt Nam
không phải là ngoại lệ, vấn đề là phải chọn tiến trình hội nhập sao cho phù hợp
với hoàn cảnh và quá trình phát triển của mình. Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VI của Đảng (1986) đã khởi xớng công cuộc đổi mới mà một trong những
hớng quan trọng là mở rộng quan hệ và hợp tác quốc tế. Đại hội VII (1992), Đại
hội VIII (1996) đã tiếp tục phát triển đờng lối đổi mới của Đại hội VI, đa dạng
hoá, đa phơng hoá quan hệ theo tinh thần: Việt Nam muốn làm bạn với tất cả
các nớc trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển
(Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, NXB Chính trị quốc gia, Hà
Nội 1996, trang 130) nhằm đẩy mạnh quan hệ đối ngoại, phá thế bị bao vây
cấm vận, tham gia tích cực vào đời sống của cộng đồng quốc tế. Chủ trơng này
đã tạo điều kiện thúc đẩy tiến trình hội nhập quốc tế của ta. Chúng ta cũng nhận
thức rõ hội nhập quốc tế thực chất là cuộc đấu tranh phức tạp để góp phần phát
triển kinh tế và củng cố an ninh chính trị, độc lập kinh tế và bản sắc dân tộc của
mỗi nớc thông qua việc thiết lập các mối quan hệ tuỳ thuộc lẫn nhau, đan xen,
nhiều chiều, ở nhiều tầng nấc với các quốc gia khác.
Chính sách hội nhập quốc tế từng bớc đợc hình thành trong quá trình triển
khai đờng lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phơng hoá, đa dạng hoá của Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ VII.
Tiếp đó, Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII đã quyết
định:"Nhiệm vụ đối ngoại trong thời gian tới là củng cố môi trờng hoà bình
và tạo điều kiện quốc tế thuận lợi hơn nữa để đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã
hội, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nớc", xây dựng một nền kinh tế mở và
đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới.
Chúng ta đã nỗ lực thúc đẩy hợp tác với tất cả các nớc và thể chế chính trị
khác nhau. Chúng ta đã phá đợc thế bao vây cô lập về chính trị, cấm vận về
kinh tế, thiết lập quan hệ ngoại giao với hơn 160 nớc trong đó có tất cả các nớc
lớn, phát triển quan hệ thơng mại với 130 nớc và lãnh thổ. Đồng thời, chúng ta
đã khai thông đợc quan hệ với các tổ chức tài chính, tiền tệ quốc tế nh IMF, WB
và các tổ chức phát triển khác trong hệ thống liên hợp quốc. Chúng ta đã cố
gắng cải cách quản lý kinh tế, bao gồm cả lĩnh vực pháp lý và xây dựng cơ chế
9
thị trờng có sự quản lý của nhà nớc theo định hớng xã hội chủ nghĩa, phù hợp
với luật pháp và tập quán quốc tế.
Bớc phát triển tiếp theo là chúng ta tiếp tục thúc đẩy tiến trình hội nhập
qua việc tham gia các tổ chức hợp tác kinh tế, thơng mại khu vực và thế giới nh
ASEAN (7 - 1995), APEC (11 - 1998), Đàm phán thơng mại Việt - Mỹ và tích
cực chuẩn bị tham gia WTO.
2. Cần quán triệt những quan điểm và nguyên tắc của Đảng về hội
nhập.
Hội nhập quốc tế giữ vững độc lập, tự chủ và định hớng xã hội chủ nghĩa.
Đây là yêu cầu chính trị cao nhất đối với tiến trình hội nhập quốc tế của ta. Hội
nhập phải tuân thủ các nguyên tắc chung là bảo vệ độc lập, thống nhất toàn vẹn
lãnh thổ, bình đẳng, cùng có lợi, bảo vệ và phát triển sản xuất, giữ vững an ninh
quốc gia, giữ gìn và phát huy truyền thống và bản sắc của dân tộc.
Vậy hiểu nh thế nào về kinh tế thị trờng
định hớng xã hội chủ nghĩa?
Đổi mới ở Việt Nam không làm thay đổi tính chất và mục tiêu của
CNXH mà là quá trình tự hoàn thiẹen CNXH nhằm không ngừng thúc đẩy quá
trình phát triển và lớn mạnh của nền kinh tế xã hội chủ nghĩa.
Bản chất của chủ nghĩa xã hội: Cụ thể là, về cơ cấu của chế độ sở hữu,
chủ trơng phát triển đồng thời nhiều thành phần kinh tế, trong đó coi chế độ
công hữu là chủ thể hay kinh tế công hữu là cơ sở để từ đó phát huy tác dụng
chỉ đạo của nền kinh tế quốc hữu; về quan hệ phân phối đều duy trì chế độ phân
phối theo lao động, những hình thức phân phối khác chỉ là bổ trợ, phấn đấu đạt
mục tiêu cùng giàu có, loại trừ tình trạng phân hoá giàu nghèo trong xã hội; về
phơng diện chính trị đều kiên trì sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, không chấp
nhận chế độ đa Đảng và tự do hoá chính trị.
Chủ trơng lợi dụng một cách hợp lý cơ chế thị trờng. Trong thể chế kinh
tế mới, cơ chế thị trờng trở thành phơng thức cốt yếu trong phân phối nguồn tài
nguyên và điều hoà các mối quan hệ kinh tế. Tuy vậy, cơ chế thị trờng mà ta
đang xây dựng không hoàn toàn là tự phát, nó coi trọng vai trò quản lý của Nhà
nớc và vai trò điều tiết vĩ mô của Chính phủ, tích cực ngăn chặn và khắc phục
những khiếm khuyết cũng nh các tác động tiêu cực của kinh tế thị trờng.
Coi trọng nền văn minh tinh thần và những chuẩn mực đạo đức xã hội
chủ nghĩa nhằm loại trừ mọi biểu hiện tiêu cực trong xã hội.
- Hội nhập quốc tế là quá trình vừa hợp tác vừa đấu tranh, cốt lõi là giành
thị trờng, vốn, công nghệ và kỹ thuật; phải tuân thủ các nguyên tắc, luật lệ và
tập quán quốc tế, trên cơ sở "bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi".
- Hội nhập quốc tế là nhằm mục tiêu phát triển, phục vụ đổi mới thành
công, thực hiện thắng lợi công nghiệp hoá, hiện đại hoá, đảm bảo hiệu quả kinh
tế xã hội và tăng trởng bền vững của nền kinh tế quốc dân, hạn chế tối đa tiêu
cực của những chao đảo, biến động từ bên ngoài.
- Hội nhập phù hợp với chủ trơng "phát triển kinh tế đối ngoại theo hớng
xây dựng hệ thống kinh tế mở" hình thành thị trờng đồng bộ, thông suốt trong
cả nớc, gắn với kinh tế với thị trờng thế giới, thể hiện cả trong sự chuyển dịch
10
cơ cấu kinh tế và đổi mới cơ chế quản lý góp phần khơi dậy và phát huy có
hiệu quả các nguồn lực trong nớc
3. Việt Nam với toàn cầu hoá: Cơ hội và thách thức.
3.1. Về kinh tế
Quá trình toàn cầu hoá đã tạo ra những cơ hội để tăng cờng sự phát triển
của quốc gia.
- Cơ hội để chuyên môn hoá sâu hơn qúa trình sản xuất và xuất khẩu
những mặt hàng ta có u thế cạnh tranh; nhập những sản phẩm trung gian và tiêu
dùng với giá rẻ hơn.
- Sự cạnh tranh tăng lên: những cải tiến công nghệ, tri thức đợc tăng lên c-
ờng qua nhập khẩu hoặc thực tế công việc, hạn chế tham nhũng và ăn chênh
lệch giá.
- Thơng mại còn thúc đẩy sự tăng trởng kinh tế, tạo thêm những cơ hội
buôn bán mới do có nhiều sự tơng đồng về văn hoá, luật pháp, quan hệ dân tộc
và các hệ thống phân phối.
- Tăng thu hút đầu t và chuyển giao kỹ thuật, công nghệ cao từ các nớc.
- Tham gia các luồng tài chính và vốn quốc tế tạo ra những cơ hội to lớn:
tiếp cận các nguồn tài chính quốc tế sẽ giảm bớt hạn chế về ngoại hối, nhờ đó
tăng khả năng nhập khẩu. Ngoài ra còn đóng góp quan trọng và tạo việc làm
Tuy nhiên, thách thức của việc tham gia vào hội nhập kinh tế quốc tế
cũng rất lớn.
- Nền kinh tế đối phó với khả năng bất ổn định hơn, suy thoái kinh tế có
thể xảy ra, khó lờng trớc đợc.
- Việc tự do hoá thơng mại có thể gây khó khăn thậm chí làm sụp đổ một
số ngành lâu nay vẫn đợc bảo hộ.
- Nguy cơ bị khoá chặt vào những lĩnh vực thơng mại có khả năng tăng tr-
ởng chậm; lợi thế so sánh luôn biến động; sự thiệt hại do có sự chuyển thơng
mại từ đối tợng này, khu vực này sang đối tợng và khu vực mới.
- Trình độ phát triển kinh tế và năng lực của các doanh nghiệp, các ngành
sản xuất và dịch vụ của ta còn thấp trong khi phải cạnh tranh với những đối thủ
mạnh ở cả thị trờng trong và ngoài nớc.
- Các cơ chế của một nền kinh tế thị trờng ở nớc ta còn đang hình thành,
hệ thống luật pháp cha hoàn chỉnh; nhiều luật lệ và chính sách liên quan đến
kinh tế đối ngoại còn thiếu hoặc cha phù hợp với quốc tế.
- Ta hội nhập sau nhiều nớc trong khu vực và trên thế giới đã hoạt động
nửa thế kỷ, do đó ta phải cố gắng theo kịp tiến độ chung trong khi đang có xu h-
ớng muốn đẩy nhanh quá trình tự do hoá, với quy mô rộng hơn và mức độ sâu
sắc hơn.
3.2. Về chính trị
Dới chủ nghĩa xã hội, chính trị và kinh tế không thể tách rời nhau vì chính
sách của Đảng là cơ sở mọi biện pháp lãnh đạo kinh tế, hớng dẫn sự phát triển
của nền kinh tế.
11
Thực tế cho thấy bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội nhằm bảo
đảm sự ổn định và an toàn của toàn bộ hệ thống chính trị, kinh tế, xã hội là
nhiệm vụ trọng đại không chỉ của riêng Việt Nam mà bất cứ quốc gia nào dù
lớn hay nhỏ cũng đều phải quan tâm.
Một xã hội, một quốc gia thuộc bất cứ chế độ chính trị nào cũng cần phải
có ổn định về chính trị trong nớc, chủ động tạo ra quan hệ quốc tế thuận lợi để
chấn hng và phát triển đất nớc về mọi mặt, giành đợc vị trí xứng đáng trên tr-
ờng quốc tế. Bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội giữ vai trò quyết
định trong việc thực hiện các nhiệm vụ trên.
Việc mở rộng quan hệ quốc tế về an ninh, trật tự đã giúp Việt Nam và bạn
bè xích lại gần nhau, hợp tác để nhân lên điểm đồng, đấu tranh nhằm hạn chế
bất đồng theo xu hớng hội nhập, ổn định và cùng phát triển. Mở rộng quan hệ
và hợp tác quốc tế về an ninh, trật tự đã và sẽ giúp Việt Nam tranh thủ đợc các
kinh nghiệm và thành tựu, các phơng tiện kỹ thuật hiện đại của thế giới để bảo
vệ an ninh, trật tự, đồng thời tạo ra một thế trận, một môi trờng an ninh, trật tự
ổn định để phát triển kinh tế đất nớc.
Tuy nhiên, trên con đờng hội nhập và phát triển, Việt Nam cũng nh các n-
ớc trong khu vực đang còn nhiều khó khăn phải vợt qua. Đó là những tranh
chấp, bất đồng về biên giới, lãnh thổ, biển đảo, những tác hại của việc truyền bá
các luồng văn hoá ngoại lai, các tệ nạn xã hội. Một số tổ chức tội phạm, phản
động nớc ngoài và gốc Việt đã thờng xuyên truyền bá vào trong nớc các văn
hoá phẩm đồi trụy, phản động, đi ngợc lại đờng lối chính sách của Đảng và Nhà
nớc, cản trở việc xây dựng và phát triển nền văn hoá đậm đà bản sắc dân tộc;
Về an ninh kinh tế xuất hiện nhiều vụ việc phá hoại nền kinh tế Việt Nam nh
lừa đảo kinh tế, tẩy rửa tiền, sản xuất và lu hành tiền giả
Trong bối cảnh Việt Nam đang trên đờng hội nhập quốc tế, mở cửa giao lu
với thế giới, vấn đề bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội hơn lúc nào
hết cần đợc quan tâm đặc biệt để bảo đảm ổn định chính trị, tạo môi trờng xã
hội, quan hệ quốc tế thuận lợi cho phát triển kinh tế, tạo sức mạnh quốc gia từ
bên trong, vợt qua thử thách, đứng vững và phát triển.
3.3. Về văn hoá - xã hội.
Văn hoá, cũng nh mọi sự vật và hiện tợng đều có tính hai mặt. Nhận thức
của mỗi dân tộc, mỗi con ngời đối với cùng một nền văn hoá cùng một nền văn
hoá cũng khác nhau, họ tìm thấy những khía cạnh khác nhau: tích cực và tiêu
cực, tốt và xấu, phù hợp và không phù hợp. Bởi vậy cần có sự chọn lọc những
cái hay, cái đẹp và dẫn đến sự đào thải những cái xấu, cái dở.
Quốc gia Việt Nam, con ngời Việt Nam sẽ hội nhập cùng cộng đồng quốc
tế với bản lĩnh của mình, với sức mạnh của mình để đạt tới mục tiêu của mình.
Trên cơ sở nền kinh tế đợc quốc tế hoá, thành tựu khoa học kỹ thuật đợc nhân
loại hoá thì những sản phẩm văn hoá mới đang và sẽ nảy nở không còn là riêng
của một ai mà trở thành tài sản chung của nhân loại. Vì thế, Việt Nam trong
tiến trình hội nhập với bên ngoài, vừa bảo tồn những tinh hoa văn hoá dân tộc
vừa phải vợt qua cái ấn tợng nặng nề về sự phân biệt giữa văn hoá phơng Đông
với văn hoá phơng Tây do lịch sử để lại mà nhận thức một cách đúng đắn hơn,
12
rộng mở hơn về sự hội nhập giữa văn hoá dân tộc và văn hoá thế giới, giữa văn
hoá của mỗi quốc gia với văn hoá quốc tế.
Văn hoá ngày nay ra đời và phát triển trên cơ sở của nền kinh tế công
nghiệp và hiện đại hoá. Nó tạo nên lối suy nghĩ năng động, thông minh và
nhanh nhạy, phong cách lao động kỹ thuật, khẩn trơng và có hiệu quả, mối quan
hệ xã hội bình đẳng, dân chủ, mức sống đầy đủ tiện nghi ngày càng đợc nâng
cao. Những điều đó đã nhân lên gấp bội sức mạnh của con ngời trong t duy và
hành động, tạo nên một động lực mạnh mẽ thúc đẩy xã hội tiến lên với tốc độ
phi thờng. Mặt khác, là sản phẩm của nền kinh tế thị trờng, văn hoá thế giới
cũng chứa đựng mặt trái của nó. Đó là tính ích kỷ và sự giành giật không thơng
tiếc, là lối sống cá nhân thực dụng tràn vào mọi ngõ ngách của gia đình và cộng
đồng, nhiều khi bất chấp quan hệ tình cảm truyền thống
Trong quá trình hội nhập văn hoá, Việt Nam phải giải quyết những mối
quan hệ chằng chéo giữa văn hoá nông nghiệp lâu đời và văn hoá công nghiệp
đang ngày càng phát triển, giữa văn hoá dân tộc truyền thống với văn hoá thế
giới ngày càng mở rộng, giữa văn hoá phơng Đông cổ truyền với văn hoá phơng
Tây hiện đại, giữa các trào lu văn hoá đơng đại. Giữa các dòng chảy đó, chọn
cho đợc một hớng đi đúng là vô cùng quan trọng.
Hội nhập không phải là hoà mình để thu nhận tất cả và do vậy, có thể mất
đi tất cả, ngăn ngừa cái xấu không phải là đóng cửa cài then cho kỹ để tránh sợ
xâm nhập từ bên ngoài, mà nên thấy một cách thực tế rằng nguồn gốc, mầm
mống và nguy cơ của nó nằm ngay chính trong lòng xã hội của mỗi nớc, trong
chính chúng ta. Có nhận thức nh vậy mới có thế tiếp thu những thành tựu văn
minh nhân loại, đồng thời loại trừ những biểu hiện tiêu cực từ bên ngoài xâm
nhập. Chúng ta nhận thức rõ rằng: phấn đấu phát triển kinh tế cao là cần thiết và
cấp thiết. Song, sẽ là sai lầm và tai hại nếu chỉ dồn sức cho hoạt động kinh tế.
Sự phát triển kinh tế phải dựa trên nền tảng văn hoá mang bản sắc dân tộc và
phải trở thành nhân tố thúc đẩy sự phát triển.
Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành Trung ơng khoá VIII (1998) nhấn
mạnh :"Xây dựng và phát triển kinh tế phải nhằm mục tiêu văn hoá, vì xã hội
công bằng văn minh, con ngời phát triển toàn diện. Nhng văn hoá không thể
chỉ là kết quả kinh tế mà còn là và phải là động lực của sự phát triển kinh tế"
(Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành Trung ơng khoá VIII. NXB
Chính trị quốc gia, Hà Nội - 1998, trang 55).
13
Phần kết
Đờng lối đổi mới đã đa đất nớc ta vào một thời kỳ mới, thời kỳ mở rộng
quan hệ quốc tế theo phơng châm đa dạng hoá, đa phơng hoá, đẩy mạnh hội
nhập với thế giới. Hoà vào xu thế chung của đời sống quốc tế, Việt Nam tích
cực và chủ động tham gia tiến trình hội nhập quốc tế nhằm đẩy mạnh phát triển
kinh tế - xã hội, làm cho dân giàu nớc mạnh, xã hội công bằng, văn minh.
Qua nội dung trình bày trên, có thể thấy rõ là cơ hội và thách thức là hai
mặt của quá trình toàn cầu hoá. Nh vậy thì: ai là ngời đóng vai trò điều tiết hai
mặt trên trong quá trình hội nhập quốc tế và làm thế nào để tranh thủ tận dụng
các cơ hội và đối phó với những thách thức? Tôi nghĩ rằng không ai khác mà
chính là Nhà nớc phải phát huy vai trò và hiệu quả trong quản lý vĩ mô. Và
trong tiến trình hội nhập cần quán triệt những quan điểm, nguyên tắc của Đảng
về hội nhập mà cốt lõi là hội nhập quốc tế nhng giữ vững độc lập, tự chủ và định
hớng xã hội chủ nghĩa.
Trên đây là toàn bộ bài viết của em về đề tài: "Toàn cầu hoá và hội nhập
kinh tế: xu thế, thời cơ và thách thức". Do kiến thức kinh nghiệm còn hạn chế,
thời gian tìm hiểu cha nhiều, nên khó tránh khỏi những khiếm khuyết, sai lầm.
Rất mong đợc sự góp ý, giúp đỡ của thầy cô để bài viết đợc hoàn thiện
hơn. Em xin chân thành cảm ơn!
14

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét