Ngày nay những vấn đề kinh tế toàn cầu xuất hiện ngày càng nhiều và
ngày trở nên bức xúc, đòi hỏi phải có sự phối hợp toàn cầu giữa các quốc gia.
Ngời ta có thể kể ra ngày càng nhiều những vấn đề kinh tế toàn cầu nh thơng
mại, đầu t, thị trờng, dân số, lơng thực, năng lợng, môi trờng Môi trờng toàn
cầu ngày càng bị phá hoại, các nguồn tài nguyên thiên nhiên ngày càng bị cạn
kiệt, dân số thế giới đang gia tăng nhanh chóng và trở thành một thách thức
toàn cầu; các dòng vốn toàn cầu vận động tự do không có sự phối hợp điều tiết
làm nảy sinh các cuộc khủng hoảng liên tiếp ở Châu Âu, Châu Mỹ và Châu á
trong thập kỷ 90. Cần có sự phối hợp toàn cầu để đối phó với những thách thức
đó. Bàn tay hữu hình của các chính phủ đã chỉ còn hữu hiệu ở các quốc gia,
còn trên phạm vi toàn cầu hiện đang có quá nhiều Bàn tay hữu hình đập vào
nhau, chứ cha có một Bàn tay hữu hình chung làm chức năng điều tiết toàn
cầu.
Nh vậy, toàn cầu hóa không phải là lực lợng sản xuất hay quan hệ sản xuất
mà là một xu hớng phát triển tất yếu của cả lực lợng sản xuất, quan hệ kinh tế,
chính trị, văn hóa xã hội. Đây là một xu hớng phát triển bao trùm lên tất cả các
yếu tố của đời sống xã hội. Công nghệ thông tin, liên lạc, vận tải phát triển
đang chuyển hóa các lực lợng sản xuất có tính quốc gia thành có tính toàn cầu.
Trên cơ sở đó, các quan hệ kinh tế cũng phát triển mạnh mẽ, phá vỡ các rào cản
quốc gia và gây những tác động trên phạm vi toàn cầu.
II. AFTA-Quy luật tất yếu trong quá trình hội nhập
khu vực của Việt Nam.
II.1. Khái niệm khu vực hóa và một số nét về chủ nghĩa khu vực Châu á:
Khu vực hóa là sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các nớc và là nơi đan xen lợi
ích của các chủ thể kinh tế ở ngoài biên giới quốc gia của mình, song chỉ hạn
chế trong phạm vi khu vực.
1
Chủ nghĩa khu vực có thể chia thành hai loại :
*Thứ nhất, chủ nghĩa khu vực mở dựa trên cơ sở liên kết kinh tế khu vực và
xem xét sự phát triển kinh tế của khu vực đó trong bối cảnh phát triển của nền
kinh tế thế giới, phù hợp với xu hớng toàn cầu hóa kinh tế. Đây là điều kiện, b-
ớc đệm cho toàn cầu hóa kinh tế thế giới. Ta có thể đơn cử một số ví dụ cho
1
Trích Tạp chí Ngoại Thơng, 8-14/10/1999, trang 22.
5
loại hình liên kết khu vực này, nh Liên Minh Châu Âu (EU), Khu vực mậu dịch
tự do ASEAN (AFTA), Khu vực thơng mại tự do Bắc Mỹ (NAFTA).
*Thứ hai là chủ nghĩa khu vực đóng. Loại này mâu thuẫn với toàn cầu hóa.
Loại này nhằm bảo vệ khu vực nào đó khỏi những hậu quả tiêu cực của toàn
cầu hóa, là chính sách dựa vào nội lực mở rộng đến cấp khu vực. Ví dụ nh
Hội đồng tơng trợ kinh tế SEV trớc đây.
Theo nhận định của các nhà phân tích kinh tế, trong thời gian qua Châu á trở
thành một miền đất hứa cho sự xuất hiện của các liên kết khu vực trong mọi
lĩnh vực nh chính trị, kinhtế, tiền tệ, thơng mại ; dới mọi hình thức nh Liên
minh kinh tế, Nhóm kinh tế, Liên minh tiền tệ, Tiểu vùng thơng mại tự do,
Diễn đàn đối thoại song phơng và đa phơng Đặc biệt cuối thập kỷ 90 ở Châu
á đã xuất hiện các ý tởng về Liên minh khu vực nh :
*Liên minh Hải Quan Nhật Bản - Hàn Quốc. Theo chính phủ Hàn Quốc,
việc này sẽ làm các nền kinh tế của Nhật Bản và Hàn Quốc cạnh tranh với nhau
nhiều hơn là bổ sung cho nhau, vì vậy có nhiều khả năng là làm lợi hơn cho
Nhật.
*Liên minh kinh tế Nhật-Hàn-Trung do giới kinh doanh Nhật Bản và Hàn
Quốc cùng đa ra tại cuộc gặp Tokyo tổ chức vào tháng 10 năm 1998. Các học
giả và doanh gia Hàn Quốc và Nhật Bản tích cực ủng hộ ý tởng này và coi đó
nh là một NAFTA của Châu á. Trung Quốc vẫn còn thận trọng và cha quyết
định dứt khoát.
*Phát triển liên kết Đông Bắc á dựa trên cơ sở dự án Tumangan đợc thực hiện
từ năm 1994 với sự hỗ trợ của Liên Hợp Quốc (bao gồm Bắc Triều Tiên, Hàn
Quốc, Nhật Bản, Trung Quốc và Nga).
*ý tởng về khu vực th ơng mại tự do Đông Bắc á dới hình thức này hay khác,
kiểu nh Thị trờng mới các nớc Đông Bắc á đợc nhiều học giả đa ra trong
thập kỷ 90 và xem xét việc thành lập Liên minh kinh tế giữa Nga, Nhật Bản,
Trung Quốc, Bắc Triều Tiên, Hàn Quốc, Mông Cổ.
*Liên minh kinh tế và tiền tệ Nga-Nhật. Theo các nhà phân tích, động lực của
Liên minh này là việc Nhật Bản quan tâm đến nguồn tài nguyên của Nga ở
Siberia và Viễn Đông. Ngoài ra, Nhật còn muốn biến Nga thành cầu nối giữa
Nhật và EU. Nhật muốn tiên phong thành lập khu vực đồng yên quốc tế và nh
vậy Nhật sẽ hỗ trợ cho sự phục hồi kinh tế của Nga. Nếu vậy nền kinh tế Nga
sẽ tiến tới chia thành hai phần : phía Đông, phía Tây và hình thành hai khu vực
tiền tệ, hai ngân hàng trung ơng tại Matxcơva và Viễn Đông, trong đó ngân
hàng trung ơng Viễn Đông sẽ liên kết với Nhật Bản.
*Thành lập Liên minh tiền tệ Châu á tơng tự nh Liên minh tiền tệ Châu Âu và
sử dung một đồng tiền thống nhất (đã đợc thảo luận sôi nổi vào tháng 11 năm
1998). Theo các tác giả của ý tởng này, cần phải nghiên cứu vấn đề này một
6
cách thận trọng, trong đó có việc đông tiền nào sẽ là cơ sở cho hệ thống tài
chính thống nhất ở Châu á.
*Thành lập Qũy tiền tệ Châu á (AMF) để giải quyết những tình huống khủng
hoảng tài chính trong khu vực (không cần sự tham gia của IMF) do Nhật Bản
khởi xớng vào tháng 9 năm 1997. Nhật Bản cam kết đóng góp một nửa trong số
100 tỷ USD ban đầu của AMF. Ban đầu nhiều nớc rất hào hứng với sáng kiến
này của Nhật Bản, song thái độ tiêu cực của IMF và Mỹ đã kìm hãm việc phát
triển ý tởng này. Năm 1998 Nhật Bản lại đa vấn đề này ra diễn đàn quốc tế.
*Thành lập các tiểu vùng th ơng mại tự do song ph ơng . Theo ý tởng này, Hàn
Quốc dự định ký kết Hiệp định mậu dịch thơng mại tự do với Chi lê, Nam Phi,
Thổ Nhĩ Kỳ và các nớc khác. Phơng án hợp tác này không dựa vào yếu tố gần
gũi về địa-kinh tế, mà dựa vào khả năng bổ sung cho nhau của các nền kinh tế
của các nớc đối tác. Việc thực hiện ý tởng nh vậy có thể đợc coi nh quá trình
toàn cầu hóa chủ nghĩa khu vực Châu á .
*Thể chế hóa công tác của các Diễn đàn liên lục địa APEC, ASEM. Các tổ
chức này đến nay mới chủ yếu là nơi trao đổi ý kiến giữa các nớc hàng đầu từ
các khu vực khác nhau chứ cha tập trung nhiều vào việc tìm kiếm khả năng
phối hợp chính sách kinh tế và tài chính giữa các nớc thành viên.
*Liên minh tiền tệ các n ớc ASEAN . Đây là đề nghị của Malaysia đa ra vào
đầu năm 1998 nhằm thành lập đồng tiền thông nhất giữa các nớc ASEAN trên
cơ sở đồng đô la Singapore hoặc đông tiền tập thể mới để chống lại tình trạng
đô la Mỹ hóa nền kinh tế Châu á. Có lẽ đây là lời đề nghị duy nhất theo tinh
thần chủ nghĩa khu vực đóng. Để khẳng định đề nghị này, Malaysia khi đó đã
thực hiện chính sách kiểm soát tiền tệ chặt chẽ và kiểm soát vốn nớc ngoài.
Tuy nhiên, ý tởng này của Malaysia không đợc các nớc trong ASEAN ủng hộ.
Các nớc muốn hớng nhiều hơn đến những vấn đề của chủ nghĩa khu vực Châu
á , chú trọng hợp tác với Nhật Bản, Mỹ, EU nhiều hơn so với hợp tác nội khu
vực.
*Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) ra đời tại Hội nghị thợng đỉnh
ASEAN lần thứ 4 tháng 1 năm 1992 tại Singapore, đánh dấu một giai đoạn mới
trong hợp tác kinh tế khu vực Đông Nam á. Theo Tuyên bố Singapore , mậu
dịch tự do trong nội bộ khu vực sẽ đợc thực hiện vào năm 2008. Mục tiêu cơ
bản của nó là tăng cờng khả năng cạnh tranh của ASEAN nh một cơ sở sản
xuất quốc tế nhằm cung cấp hàng hóa ra thị trờng thế giới.
1
Cụ thể là các nớc
ASEAN sẽ tăng cờng tự do hóa thơng mại nội bộ khu vực bằng cách loại bỏ
các hang rào thuế quan và phi thuế quan, sẽ tăng cờng thu hút đầu t nớc ngoài
vào khu vực bằng việc tạo dựng một khu vực đầu t tự do và sẽ làm cho ASEAN
1
Trích AFTA Reader, Volume I, Questions and answers on the CEPT for AFTA, ASEAN Secretariat,
Jakarta, 11/1993.
7
thích nghi với những điều kiện kinh tế quốc tế luôn thay đổi, đặc biệt là trong
xu thế tự do hóa thơng mại thế giới.
Từ các diễn biến nêu trên có thể rút ra một số đặc điểm của chủ nghĩa khu vực
Châu á :
@ Trớc hết đó là mục tiêu nắm vai trò chủ đạo ở Châu á của Nhật Bản, quanh
nó có thể phát triển các quá trình liên kết khu vực. Đa số các nớc Châu á sẵn
sàng chấp nhận vai trò này của Nhật.
2
Hợp tác kinh tế Nhật Hàn có cơ hội để trở
thành cơ sở của chủ nghĩa khu vực Châu á mới, tuy nhiên hợp tác Nga- Nhật
cũng có khả năn này.
@ Thứ hai, Trung Quốc vẫn cha có thiện chí với sự liên kết khu vực và chủ
nghĩa khu vực Châu á. Trung Quốc cha sẵn sàng hớng tới vai trò chủ đạo, và
xem ra cũng không chịu đứng sau Nhật.
@ Thứ ba, Nga còn vắng bóng trong các cơ cấu nớc ngoài của chủ nghĩa khu
vực Châu á , ngoại trừ dự án Tumangan.
@ Thứ t, khu vực kinh tế Châu á cha có sự ủng hộ của Mỹ, dẫu rằng trong thập
kỷ 90 Mỹ đã chuyển từ thái độ tiêu cực sang tích cực đối với việc đàm phán
chính trị đa phơng ở Châu á.
II.2. Tính tất yếu của AFTA trong quá trình hội nhập khu vực của Việt
Nam:
Đánh giá sự hội nhập kinh tế quốc tế, ngời ta sử dụng công thức :
Theo công thức này, nếu trong những năm 1971-1975, tốc độ hội nhập của thế
giới là 0,5%, trong những năm 1986-1995 là 2,8%, thì tốc độ hội nhập ở Việt
Nam ở thời kỳ 1991-1995 là 55,1%. Nh vậy, chúng ta đã vợt tốc độ bình quân
của thế giới và bằng Indonesia năm 1994. Năm 1994, tốc độ ấy ở Malaysia là
171%, Singapore là 375%, Thailand là 80%, Philipines là 77%. Sự gia tăng tốc
độ hội nhập vào nền kinh tế thế giới của chúng ta gắn liền với những thành tựu
nổi bật mà chúng ta đã đạt đợc trong mọi lĩnh vực của nền kinh tế. Điều đó
cũng chứng tỏ, Đảng và Nhà nớc ta trong quá trình đổi mới đã vận dụng một
cách đúng đắn xu hớng hôi nhập kinh tế quốc tế.
2
Trích Tạp chí Ngoại Thơng, 8-14/10/1999, trang 17.
8
Tốc độ hội nhập= Mức gia tăng bình quân hàng năm của thơng mại
quốctế - Mức gia tăng hàng năm của tổng sản phẩm thế giới
Ngày nay khi bàn về những nhân tố có ảnh hởng lớn đến tơng lai hòa bình
và phát triển của Châu á Thái Bình Dơng, ngoài những nớc lớn ra, ngời ta th-
ờng nói đến ASEAN nh một lực lợng chính trị đáng kể trong khu vực.
1
Thực vậy, ASEAN đang nổi lên nh một tổ chức có trọng lợng ở Châu á
Thái Bình Dơng do thành công trong phát triển kinh tế của mỗi nớc thành viên
cũng nh do đã tạo dựng đợc một cơ chế hợp tác tiểu khu vực tỏ ra có sức sống,
và thờng có đợc một tiếng nói đồng nhất trong các vấn đề khu vực và thế giới.
Trong cục diện mới, ASEAN tỏ ra tự tin hơn trong giao tiếp với các nớc lớn
trong và ngoài khu vực, có quan hệ hợp tác phát triển với cả 3 trung tâm kinh tế
Mỹ, Nhật và Cộng đồng Châu Âu, không gắn vận mệnh mình với một nớc lớn
nào. Ngợc lại, các nớc lớn tỏ ra coi trọng vai trò ASEAN khi xử lý các vấn đề
khu vực. Trong tơng lai, tiểu khu vực Đông Nam á chắc chắn sẽ phát huy hết
tiềm năng và vai trò đáng có của nó trong đời sống chính trị-kinh tế ở Châu á
Thái Bình Dơng và cả thế giới khi hoàn tất quá trình hợp tác kinh tế, thu ngắn
khoảng cách phát triển giữa các nớc ASEAN cũ với các nớc thành viên mới gia
nhập trong đó có Việt Nam. Ngời ta cho rằng một ASEAN 10 là một thực thể
rất có triển vọng, có lợi cho sự ổn định và phát triển lâu bền của khu vực.
Việc Việt Nam trở thành thành viên chính thức của ASEAN nói chung, đồng
thời thực hiện những cam kết trong Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA)
là hoàn toàn phù hợp với chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nớc ta là Việt
Nam muốn là bạn của tất cả các nớc trong công đồng thế giới, phấn đấu vì hòa
bình, độc lập và phát triển.
2
Sau khi Hiệp định Pari về một giải pháp chính trị toàn bộ cho vấn đề
Campuchia đợc kí kết, trở ngại cơ bản tồn tại hơn 10 năm trong quan hệ Việt
Nam-ASEAN đợc gỡ bỏ. Các nớc ASEAN đều muốn gác lại quá khứ hớng về
tơng lai, chuyển từ đối đầu sang đối thoại, mở rộng hợp tác về kinh tế với ta.
ý muốn này của ASEAN bắt gặp chủ trơng của chúng ta là đa phơng hóa, đa
dạng hóa các mối quan hệ kinh tế đối ngoại, trên nguyên tắc giữ vững độc lập
chủ quyền, các bên cùng có lợi, thu hút các nguồn lực bên ngoài để phát huy
mạnh mẽ các lợi thế và nguồn lực bên trong, thực hiện mục tiêu dân giàu, nớc
mạnh, xã hội công bằng và văn minh.
Ngày nay một trong những xu hớng nổi bật và cơ bản chi phối nền kinh tế
thế giới là là xu hớng toàn cầu hóa và khu vực hóa. Không một quốc gia nào,
1
Trích bài viết của Thứ Trởng Ngoại Giao Trần Quang Cơ Thế giới sau chiến tranh lạnh và Châu á-Thái
Bình Dơng trong cuốn Hội nhập quốc tế và giữ vững bản sắc, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội 1995,
trang 137.
2
Trích Văn Kiện Đại Hội Đại Biểu Toàn Quốc Đảng Cộng Sản VIệt Nam lần thứ 8, trang 120.
9
kể cả những nớc phát triển có thể hội tụ đủ những nguồn lực để phục vụ cho
sản xuất ở trong nớc. Tổ chức phát triển công nghiệp của Liên Hợp Quốc
(UNIDO) từng đa ra ớc tính, một quốc gia muốn phát triển phải có đủ 16 sản
phẩm cơ bản nh than, dầu thô, khí đốt, sắt, đồng, chì, kẽm, nhôm, niken, gỗ, l-
ơng thực, thiết bị kỹ thuật . Do điều kiện địa lý, do sự phân bổ không đều tài
nguyên thiên nhiên, không một quốc gia nào có khả năng tự đảm bảo các sản
phẩm cơ bản nói trên. Mọi quốc gia đều phụ thuộc vào nớc ngoài với mức độ
khác nhau về các sản phẩm đó. Mỹ-một nớc công nghiệp phát triển hàng đầu
thế giới hàng năm cũng phải nhập khẩu 11/16 sản phẩm, Nhật phải nhập khẩu
cả 16 sản phẩm, Đức phải nhập khẩu 15/16 sản phẩm. Nớc ta là một nớc nhỏ cả
về thế và lực, nên nếu muốn phát triển thì tất yếu phải từng bớc hội nhập về
kinh tế với thế giới mà trớc hết trên bình diện khu vực. AFTA chính là bớc đi
đầu tiên của chúng ta trong quá trình hội nhập. Vấn đề chủ yếu là cách thức
chúng ta hòa nhập vào nền kinh tế khu vực, tận dụng các cơ hội, giảm các
thách thức, để hòa nhập chứ không phải hòa tan.
Thực tế đã chứng minh tính đúng đắn của việc Việt Nam tham gia Khu vực
mậu dịch tự do ASEAN. Kể từ khi ta gia nhập AFTA, quan hệ kinh tế giữa nớc
ta với các thành viên khác của ASEAN đã phát triển nhanh chóng trên cả cơ sở
song phơng lẫn đa phơng.
1
Buôn bán hai chiều giữa Việt Nam với 5 nớc thành
viên ban đầu của ASEAN đã tăng với nhịp độ cao kể từ khi Việt Nam mới là
quan sát viên của Hiệp hội (1992).
2
Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam vào thị trờng các
nớc ASEAN
Nớc Năm 1998 9 tháng đầu năm 1999
Brunei 444218
Cambodia 75.154.500 65.891.436
Indonesia 316.148.625 372.886.218
Laos 73.291.314 157.961.467
Malaysia 114.945.010 177.819.263
Mianmar 1.503.237
Philipines 392.650.510 323.162.549
1
Trích bài viết của Thứ Trởng Ngoại Giao Vũ Khoan Việt Nam và ASEAN trong cuốn Hội nhập quốc tế
và giữ vững bản sắc, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội 1995, trang 330.
2
Trích bài viết của Nguyễn Duy Qúy Việt Nam và cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ ở Đông Nam á, Tạp
chí Nghiên Cứu Đông Nam á, số tháng 5/1999, trang 4.
10
Singapore 1.080.088.422 695.885.855
Thailand 295.261.349 201.831.591
Nguồn : Tạp chí Ngoại Thơng, 10-16/12/1999, tr.7.
Việc Việt Nam tham gia AFTA cũng đồng nghĩa với việc ta tham gia vào
một trong những khu vực kinh tế đang phát triển năng động nhất của nền kinh
tế thế giới. ASEAN đang nổi lên nh một khối kinh tế khu vực đầy triển vọng.
Trong những năm tới, vị trí của ASEAN trong nền kinh tế thế giới sẽ ngày càng
tăng.
1
Phần của ASEAN* trong nền kinh tế thế giới:
Phần của ASEAN (%) 1970 1975 1980 1985 1990 1995 2000
GDP thế giới
Xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ
của thế giới
Nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ
của thế giới
FDI vào các nớc ĐPT
Dân số thế giới
Tiết kiệm thế giới
Đầu t toàn thế giới
GDP/ngời (PPP)(USD)
2,4
1,8
2,2
4,0
5,7
1,4
2,1
582
2,7
2,3
2,6
10,6
5,9
1,8
2,7
985
3,3
3,2
3,1
10,9
5,9
3,2
3,6
1966
3,6
3,4
3,3
19,5
6,1
3,7
4,0
2722
4,1
4,0
3,4
23,0
6,1
5,1
5,7
4090
5,0
6,1
4,0
22,8
6,2
7,3
8,0
6298
5,7
8,0
6,1
26,6
6,2
8,0
8,4
9643
*Số liệu chỉ tính 5 nớc Indonesia, Malaysia, Philipines, Thailand, Singapore
theo phơng pháp Bình quân gia quyền.
Nguồn :T/c những vấn đề kinh tế thế giới số 5 năm 1997, tr.11
Việc ta hội nhập vào một khu vực kinh tế mạnh sẽ góp phần to lớn vào việc
nâng cao uy tín của Việt Nam trên trờng quốc tế, chẳng những đem lại những
nguồn hàng hóa và dịch vụ dồi dào cho tiêu dùng trong nớc với giá hạ, những
nguồn bổ sung lớn về khoa học, công nghệ, thiết bị máy móc, kinh nghiệm
quản lý hiên đại của các nớc trong khối , mà từ đó còn tạo nên động lực kích
thích khơi dậy các nguồn tiềm năng sẵn có của đất nớc, tạo nên bầu không khí
1
Trích bài viết của Lê Bộ Lĩnh ASEAN trong nền kinh tế thế giới, Tạp chí Những vấn đề kinh tế thế giới
số 5/1997, trang 10.
11
sôi động trong đời sống kinh tế.
1
Lợi ích mà Việt Nam đạt đợc khi tham gia
AFTA dẫn đến sự tất yếu phải tham gia thể chế này của Việt Nam.
Chơng II : Cơ hội và thách thức đối với Việt Nam khi
gia nhập AFTA :
I. Nội dung tham gia AFTA của Việt Nam :
I.1.Giới thiệu tổng quan về ASEAN và AFTA:
ASEAN khi mới đợc thành lập vào ngày 8-8-1967 bao gồm các nớc
Indonesia, Malaysia, Thailand, Singapore. Tình hình thế giới lúc đó có diễn
biến khá phức tạp. Cuộc chiến tranh xâm lợc của Mỹ ở Việt Nam-Đông Dơng
diễn ra rất ác liệt, Mỹ lôi kéo cả một số nớc Đông Nam á vào trận chiến và đã
chịu hết thất bại này tới thất bại khác. Nớc Anh buộc phải rút khỏi phía Đông
kênh Xu-ê. Tổng thông Pháp Đờ-gôn sang Phnompenh đa ra khẩu hiệu trung
lập hóa Đông Nam á. ở Trung Quốc, cách mạng văn hóa đang phát triển tới
điểm cao và ảnh hởng trực tiếp đến cả các nớc Đông Nam á. Liên Xô lúc đó
bắt đầu vận động hình thành một hệ thống an ninh tập thể Châu á. Trong bối
cảnh ấy, sự xuất hiện của ASEAN xét về một phơng đó là sự tập hợp lực lợng
để ứng phó với những khó khăn bên trong và những diễn biến ở bên ngoài. Nh
vậy có thể nói, mục tiêu ban đầu khi thành lập của ASEAN là mục tiêu chính
trị chứ hoàn toàn không phải là mục tiêu kinh tế.
Sau khi Mỹ buộc phải xuống thang chiến tranh, chuyển sang thực hiện
học thuyết Nic-xơn, năm 1971 ASEAN đa ra sáng kiến lập Khu vực hòa
bình, tự do, trung lập (ZOPFAN); và sau khi Mỹ hoàn toàn thất bại trong chiến
tranh xâm lợc ở Việt Nam-Đông Dơng, Hội nghị cấp cao đầu tiên của ASEAN
họp ở Bali (Indonesia) năm 1976 đã ký Hiệp ớc thân thiện và hợp tác, khẳng
định 5 nguyên tắc cùng tồn tại hòa bình. Hội nghị này đồng thời cũng đánh dấu
một bớc ngoặt mới trong quan hệ hợp tác giữa các nớc ASEAN: chuyển từ hợp
tác vì mục tiêu chính trị sang hợp tác kinh tế. Tuy nhiên hợp tác kinh tế trong
nội bộ ASEAN chỉ thực sự có đợc sự chuyển biến về chất khi đến đầu năm
1
Trích bài viết của Nguyễn Văn Ninh Hội nhập quốc tế và độc lập tự chủ trong kinh tế, Tạp chí Cộng Sản
số 3/2/1998, trang 50.
12
1992, các thành viên ASEAN đã ký kết một Hiệp định về khu vực mậu dịch tự
do ASEAN (ASEAN Free Trade Area) tại Hội nghị thợng đỉnh ASEAN lần thứ
t ở Singapore.
Có thể dẫn ra một số nguyên nhân dẫn đến sự ra đời của AFTA:
*Thứ nhất, trong thời gian đầu (từ 1967 đến 1976) do tình hình chính trị an
ninh trong khu vực và trong các nớc phức tạp, các nớc ASEAN chỉ tập trung
vào giải quyết những mâu thuẫn nội bộ, những bất đồng để tăng cờng hiểu biết
lẫn nhau do đó ít bàn đến hợp tác kinh tế.
11
Sau thời kỳ trên, ngoài sự hợp tác
trong lĩnh vực chính trị, các nớc ASEAN đã bắt đầu xây dựng và thực hiện một
số hợp tác về kinh tế. Hội nghị Ngoại trởng ASEAN (12/1977) đã ký Thỏa
thuận u đãi mậu dịch (PTA:Preferential Trade Agreement) nhằm tăng cờng
buôn bán trong nội bộ ASEAN thông qua 5 biện pháp: u đãi qua thuế; ký các
hợp đồng dài hạn về trao đổi hàng hóa với một khối lợng lớn; các điều kiện u
đãi cho tài trợ nhập khẩu; u đãi trong thu mua của các cơ quan chính phủ; loại
bỏ các biện pháp phi thuế quan trên cơ sở u đãi. Trong lĩnh vực hợp tác công
nghiệp ASEAN có ba kế hoạch hợp tác: kế hoạch các dự án công nghiệp
ASEAN (AIP:ASEAN Industrial Project) năm 1976; kế hoạch bổ sung công
nghiệp ASEAN (AIC: ASEAN Industrial Complementation) bắt đầu từ năm
1981; các dự án liên doanh công nghiệp ASEAN (AIJV: ASEAN Industrial
Joint Venture) bắt đầu từ 1983. Về nông nghiệp và lơng thực, năm 1979 các n-
ớc ASEAN ký Hiệp định lập Qũy dự trữ an ninh lơng thực (AFSR) để giúp đỡ
nhau trong tình hình khẩn cấp, thành lập hệ thống thông tin báo động sớm về
lơng thực. Trong lĩnh vực tài chính và ngân hàng, các nớc ASEAN tập trung
vào các vấn đề nh lập qũy tiền tệ, sử dụng đồng tiền của các nớc ASEAN trong
thanh toán thơng mại, thống nhất thuế, hải quan, bảo hiểm.
Mặc dù có nhiều chơng trình hợp tác nhng nhìn chung, các dự án này hoặc
không thực hiện đợc, hoặc hiệu quả rất thấp. Bởi vì một số nớ cha nhìn thấy lợi
ích to lớn do hợp tác kinh tế đem lại, ngợc lại họ sợ rằng các nớc khác có thể đ-
ợc hởng quyền lợi trong khi họ phải hy sinh lợi ích quốc gia. Mặt khác, do cơ
cấu nền kinh tế giống nhau nên họ thờng cạnh tranh với nhau hơn là hợp tác
trên thị trờng thế giới.
*Thứ hai, do những hạn chế trong hợp tác kinh tế, từ đầu những năm 90 các n-
ớc ASEAN đã nhận thức đợc rằng để đẩy mạnh hợp tác kinh tế họ phải xây
dựng một hình thức hợp tác mới có hiệu quả hơn. Những sáng kiến và kiến
nghị đợc đa ra nh: Đề nghị thành lập nhóm kinh tế Đông á (EAFG) của
Malaysia, thỏa thuận về thuế quan u đãi có hiệu lực chung (CEPT) do
1
1
Trích bài viết của TS Nguyễn Hữu Cát Khu vực mậu dịch tự do ASEAN và những tác động của nó đến
Việt Nam, Tạp chí Những vấn đề kinh tế thế giới số 5 tháng 10/1995, trang 13.
13
Indonesia đề xớng, thành lập khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) của
Thailand và Hiệp ớc kinh tế ASEAN (AET) do Philipines nêu ra nhằm thiết lập
thị trờng chung ASEAN. Sau khi xem xét các đề án đa ra, các nớc ASEAN đã
chọn đề nghị thiết lập AFTA và sử dụng CEPT làm công cụ chính để thực hiện.
*Thứ ba, tình hình căng thẳng về chính trị và an ninh ở khu vực Đông Nam á
giảm dần, đặc biệt là khi cuộc chiến tranh lạnh kết thúc và việc các nớc
ASEAN, Đông Dơng cùng với cộng đồng quốc tế tìm đợc giải pháp cho cuộc
khủng hoảng ở Campuchia làm cho nhân tố chính trị an ninh, vốn là chất kết
dính tạo nên sự đoàn kết nhất trí giữa các nớc thành viên, đồng thời cũng là yếu
tố nâng cao uy thế của ASEAN trên các diễn đàn quốc tế, giảm dần ý nghĩa.
Trớc đây, do nhu cầu phải tập hợp thành những Liên minh chính trị-quân sự
nên Mỹ, Nhật Bản, Tây Âu phải nhợng bộ về kinh tế với ASEAN. Ngày nay,
những nớc này sẵn sàng đấu tranh với các nớc ASEAN trên lĩnh vực kinh tế.
Việc Mỹ yêu cầu các nớc ASEAN phải trả tiền tài sản trí thức và mở cửa cho
hàng Mỹ nhập vào; dùng vấn đề nhân quyền gắn với chính sách kinh tế thơng
mại là một ví dụ. Để đối phó với những thách thức trên, đồng thời để nêu cao
vai trò của mình trên những vấn đề khu vực và toàn cầu, ASEAN cho rằng phải
dựa vào hợp tác kinh tế của bản thân các nớc trong Hiệp Hội. Một nhu cầu
khác từ nội bộ nền kinh tế ASEAN là: sự tăng trởng kinh tế cao trong suốt hai
thập kỷ và tốc độ công nghiệp hóa trong thời gian qua diễn ra với nhịp độ
nhanh cũng đặt ra những yêu cầu mới cho hợp tác kinh tế. Bởi vì quá trình công
nghiệp hóa nhanh ở tất cả các nớc thành viên đã làm cho trao đổi thơng mại,
đặc biệt trong lĩnh vực trao đổi các sản phẩm chế tạo tăng lên nhanh chóng.
Chẳng hạn năm 1980 hàng chế tạo của Singapore chỉ chiếm 15,3% trong tổng
số hàng xuất khẩu nội bộ của ASEAN thì đến năm 1990 đã tăng lên 60,20%;
Indonesia từ 13,3% tăng lên 46,6%; Thailand từ 29,1% tăng lên 48,3%;
Philipines từ 31,3% tăng lên 61,6%.
1
*Thứ t, những năm trớc đây đối tợng buôn bán và nguồn đầu t quan trọng nhất
của các nớc ASEAN là Mỹ, Tây Âu và Nhật Bản. Các nớc này đã tạo điều kiện
để hàng hóa của ASEAN nhập khẩu vào nên tốc độ phát triển ngoại thơng và
GNP của các nớc ASEAN tăng lên nhanh chóng. Song hiện nay xu hớng lập
khối riêng nh EU, NAFTA và chủ nghĩa bảo hộ mậu dịch đang phát triển khắp
thế giới đã làm cho ASEAN và nhiều nớc khác ở Châu á - Thái Bình Dơng gặp
khó khăn về thị trờng, nguồn vốn từ Châu Âu và Mỹ. Một số nhà nghiên cứu
kinh tế của các nớc ASEAN cho rằng nếu các nớc này không nhanh chóng tìm
hình thức, biện pháp mới để thúc đẩy hợp tác kinh tế trong nội bộ Hiệp hội thì
có nguy cơ bị bỏ xa trong cuộc chạy đua kinh tế trên phạm vi toàn thế giới. Do
đó các nớc ASEAN hy vọng: sự ra đời của AFTA sẽ góp phần tăng cờng thơng
mại nội bộ ASEAN, thay thế cho phần xuất khẩu sang các thị trờng lớn nh Bắc
1
Trích bài viết của TS Nguyễn Hữu Cát Khu vực mậu dịch tự do ASEAN và những tác động của nó đến
Việt Nam, Tạp chí Những vấn đề kinh tế thế giới số 5 tháng 10/1995, trang 14.
14
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét